Phân tích khổ 3 bài Bình Ngô đại cáo (dàn ý và 2 mẫu chi tiết)

Bình Ngô đại cáo là tác phẩm được sáng tác nhằm tổng kết quá trình đấu tranh chống giặc Minh nhiều gian khổ. Các bạn hãy cùng chúng tôi phân tích khổ 3 bài Bình Ngô đại cáo để thấy được quá trình khởi nghĩa, đánh đuổi quân minh của nghĩa quân Lam Sơn nhé!

Camnangbep.com cũng giúp giải đáp những vấn đề sau đây:

  • đại cáo bình ngô – phần 2
  • Dàn ý đoạn 4 Bình Ngô đại cáo
  • Ta đây: Núi Lam Sơn dấy nghĩa Chốn hoang dã nương mình
  • Bình Ngô đại cáo thivien
  • Độc Truyện Bình Ngô Đại Cáo
  • Tư tưởng nhân nghĩa trong Bình Ngô đại cáo
  • Tư tưởng Nho giáo trong Bình Ngô đại cáo
phân tích đoạn 3 bình ngô đại cáo
phân tích đoạn 3 bình ngô đại cáo

YouTube video

Đề bài: Phân tích khổ 3 bài Bình Ngô đại cáo

phan tich kho 3 bai binh ngo dai cao

Phân tích khổ 3 bài Bình Ngô đại cáo

I. Dàn ý phân tích khổ 3 bài Bình Ngô đại cáo

1. Mở bài

– Giới thiệu ngắn gọn tác phẩm Bình Ngô đại cáo
– Giới thiệu khái quát nội dung cần nghị luận: Khổ 3 của tác phẩm

2. Thân bài

* Khẳng định nhân tố quan trọng hàng đầu trong cuộc khởi nghĩa đó là chủ soái Lê Lợi:
– Là người anh hùng yêu nước thương dân, có lòng tự tôn dân tộc, sự căm ghét giặc ngoại xâm sâu sắc “Ngẫm thù lớn… không cùng sống”
– Lòng kiên trì, bền bỉ “Nếm mật nằm gai… mười mấy năm trời” để xây dựng lực lượng
– Khả năng thu phục quân hùng, biết coi trọng nhân tài “Cỗ xe cầu hiền… phía tả”
– Lòng quyết tâm đánh đuổi giặc ngoại xâm dẫu còn nhiều gian khó “Tấm lòng… phía Đông”

* “Tường thuật” lại cuộc khởi nghĩa Lam Sơn
– Giai đoạn đầu của cuộc khởi nghĩa:
+ Sự chênh lệch về mọi mặt so với quân giặc…(Còn tiếp)

>> Xem chi tiết Dàn ý phân tích khổ 3 bài Bình Ngô đại cáo tại đây

II. Bài văn mẫu Phân tích khổ 3 bài Bình Ngô đại cáo mẫu 1

Bình Ngô đại cáo không chỉ là một văn kiện nhằm mục đích tuyên ngôn nền độc lập của Đại Việt, tuyên ngôn về quyền quyền sống của con người mà nó còn là khúc thiên anh hùng ca về cuộc kháng chiến của quân dân ta trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn chống quân Minh xâm lược. Ở đó, ta thấy hiện lên thật chân thực và hào hùng những trận đánh đi vào lịch sử dân tộc, những trận đánh khiến địch máu chảy đầu rơi cả trăm năm sau vẫn còn kinh hãi, cũng thấy được cái tinh thần nhân nghĩa, nhân đạo của chủ, tướng nhà Lê.

Trong Bình Ngô đại cáo, trước hết phải nhắc đến nhân tố quan trọng hàng đầu trong cuộc khởi nghĩa đó là chủ soái Lê Lợi. Nguyễn Trãi miêu tả ông là người anh hùng có lòng yêu nước thương dân, lòng tự tôn dân tộc sâu sắc, thế nên ông căm ghét giặc Minh vô cùng “Ngẫm thù lớn há đội trời chung/Căm giặc nước thề không cùng sống”, ghét đến độ phải một mất một còn, ta và địch buộc một bên phải tiêu vong. Đó chính là nguyên nhân, là tiền đề đầu tiên để vị lãnh tụ Lê Lợi dựng cờ khởi nghĩa chốn Lam Sơn, lấy nơi hoang dã làm căn cứ nương mình, chờ thời cơ diệt giặc. Hơn thế nữa, Lê Lợi còn hội tụ rất nhiều yếu tố khác để trở thành vị lãnh tụ đáng kính bao gồm lòng kiên trì bền bỉ “Nếm mật nằm gai/chốc đà mười mấy năm trời” để xây dựng lực lượng, có khả năng thu phục quần hùng, biết coi trọng nhân tài “cỗ xe cầu hiền thường chăm chăm còn dành phía tả” và quan trọng nhất đó là lòng quyết tâm đánh đuổi giặc ngoại xâm dù có bao nhiêu gian khó “Tấm lòng cứu nước vẫn đăm đăm muốn tiến về phía đông”, tiến về mặt trời, về một tương lai tươi sáng rực rỡ cho dân tộc.

Thế nhưng dù có tướng soái giỏi, nhưng nghĩa quân ta lúc bấy giờ còn yếu kém về mọi mặt so với quân địch “ Vừa lúc cờ nghĩa dấy lên / Chính là lúc quân địch đương mạnh ”, về sĩ khí ta áp đảo quân địch, nhưng về mặt vật chất quân số rõ ràng ta nằm ở thế yếu, mọi khó khăn vất vả chồng chất cứ đổ dồn trong buổi đầu dựng cờ khởi nghĩa khiến Lê Lợi phải “ đau đầu nhức óc ”. Thứ nhất là ta thiếu người hiền tài đứng ra giúp nước “ Tuấn kiệt như sao buổi sớm / Nhân tài như lá mùa thu ”, thiếu cả binh sĩ tham gia khởi nghĩa giết giặc “ Trông người người lại càng vắng bóng, mịt mù như chốn bể khơi ”. Trong khi đó, quân giặc vẫn ngày đêm tàn sát nhân dân, vơ vét của cải, không chuyện ác nào không làm, nước đã mất đến nơi, đến độ khiến Lê Lợi lo ngại, mất ăn mất ngủ “ vội vã như cứu người chết đuối ”. Lương thực thì hết sạch, quân đội thì thưa thớt, giặc vẫn hoành hành ngang dọc rêu rao thao tác “ hung đồ ngang dọc ”, phải nói khó khăn vất vả chồng chất khó khăn vất vả. Nhưng bằng lòng quyết tâm cứu nước, bằng lòng căm thù giặc thâm thúy nghĩa quân ta bằng mọi cách để khắc phục khó khăn vất vả khởi đầu. Hội tụ nghĩa quân, nêu cao tấm lòng chính nghĩa, đoàn kết “ nhân dân bốn bể một nhà ”, “ tướng sĩ một lòng phụ tử ”. Vận dụng mưu lược trong chiến đấu “ dùng quân mai phục ”, ý thức can đảm hi sinh “ lấy ít địch nhiều ”, “ lấy yếu chống mạnh ”, khiến cho mỗi trận đánh của quân dân ta đều sĩ khí tưng bừng, thu được nhiều chiến công vang dội. Nguyên nhân xuất phát bởi tấm lòng nhân nghĩa, chính nghĩa của nghĩa quân “ Đem đại nghĩa để thắng hung tàn / Lấy chí nhân thay cường bạo ”, chứng tỏ một chân lý không hề dời đổi, chính nghĩa ắt phải thắng gian tà. Những trận tiên phong mở ra trường kỳ thắng lợi thật vang dội “ Trận Bồ Đằng sấm vang chớp giật / Miền Trà Lân trúc chẻ tro bay ”, Nguyễn Trãi sử dụng những hình ảnh thiên hùng vĩ, tạo nên sức gợi về sự can đảm và mạnh mẽ, oanh tạc hùng dũng trong từng trận chiến của nghĩa quân. Trái với hình ảnh oai hùng của nghĩa quân thì quân địch lại trông thật thảm hại, kẻ “ nghe hơi mà mất vía ”, kẻ thì “ nín thở cầu thoát thân ” thật vui nhộn, nực cười, cái bọn trước kia hung hăng ngang tàn là thế mà nay chẳng khác nào loài chuột lấm lem, chui lủi. Thừa thắng xông lên, vừa hành quân tiến đánh vừa tuyển binh, quân ta liên tục dành lại những cứ điểm quan trọng như Đông Đô, Tây Kinh. Giặc thất bại liên tục khiến “ Ninh Kiều máu chảy thành sông, tanh trôi vạn dặm / Tốt Động thây chất đầy nội, nhơ để ngàn năm ”, những hình ảnh có phần ghê rợn, nhưng diễn đạt một cách thật chân thực những trận đánh lịch sử dân tộc, cuộc chiến tranh ắt phải ngã xuống là vậy. Máu của ta và máu của địch cùng đổ xuống, nhưng ta thắng ở tấm lòng kiên cường, dũng mãnh hi sinh, thề sống chết với giặc. Quân giặc trước thế khí hùng dũng của nghĩa quân ta thì khí thế tan tác, kẻ chịu “ bêu đầu ”, kẻ “ đành bỏ mạng ”, tên Vương Thông muốn gỡ thế nguy khốn nhưng “ lửa cháy lại càng cháy ”. Quân ta hăng lại càng hăng, giặc chỉ còn đường “ Bó tay để đợi diệt vong, giặc đã trí cùng lực kiệt ”, bởi con đường phản luân thường đạo lý chẳng khi nào hoàn toàn có thể đi xa. “ Chẳng đánh mà người chịu khuất ta đây mưu phạt tâm công ”, trên tinh thần nhân nghĩa vốn ta đã định cho giặc một đường lui sau cuối, xin hàng mà rút lui về nước thế nhưng chúng lại âm mưu cầu cứu viện nhằm mục đích cứu vãn tình hình, thật ngoan cố không thôi. Chẳng thế lũ nhãi nhép chuột bọ Liễu Thăng, Tuyên Đức, Mộc Thạnh lại vấy vá, nhăm nhe tiến sang nước ta lần nữa nhằm mục đích lật ngược thế cờ đã sắp đến hồi kết. Nhưng nào đâu có dễ thế, bởi “ Ta trước đã điều binh thủ hiểm, chặt mũi tiên phong / Ta sau lại đưa tướng chẹn đường, tuyệt nguồn lương thực ”, để xem lũ giặc Minh còn huênh hoang, vênh váo được đến khi nào. Cái thủ đoạn hèn mọn của chúng dẫn đến những hậu quả là “ Liễu Thăng cụt đầu / Lương Minh bại trận tử trận / Lí Khánh cùng kế tự vẫn ” thế có phải là tự rước họa chỉ vì cái lòng tham dơ bẩn của mình không. Địch càng tổn thấy, mất mát bao nhiêu, thì sĩ khí quân ta lại càng tăng, nghĩa quân tràn trề nhiệt huyết chiến đấu, hứng chí tưng bừng tựa như tiếng ngựa phi, tiếng chân chạy rầm rập vang động cả núi rừng, “ Thuận đà ta đưa lưỡi đao tung phá ”, khiến quân giặc tan tác, “ bí nước quay mũi giáo đánh nhau ”, đúng là chó cùng dứt giậu. Nghĩa quân ta trên đà vững mạnh.

“Sĩ tốt kén người hùng hổ
Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh
Gươm mài đá, đá núi cũng mòn
Voi uống nước, nước sông phải cạn.

Tất cả là chuẩn bị sẵn sàng cho trận chiến sau cuối, quét sạch bóng quân địch, thế nên :

“Đánh một trận, sạch không kình ngạc
Đánh hai trận tan tác chim muông.
Cơn gió to trút sạch lá khô,
Tổ kiến hổng sụt toang đê vỡ.”

Quân giặc phải tá hỏa mà xin hàng kẻo không kịp, khắp nơi đâu đâu cũng là xác giặc bỏ mạng “ thây chất đầy đường, máu trôi đỏ nước ”, những hình ảnh có tính phóng đại, bộc lộ được sự quyết liệt của đại chiến, đồng thời là cái hào hùng trong lịch sử dân tộc phân tranh của dân tộc bản địa. Cái chất hào hùng, bi tráng ấy Nguyễn Trãi phải lấy vạn vật thiên nhiên ra mới hoàn toàn có thể diễn đạt hết được : “ Ghê gớm thay sắc phong vân phải đổi / Thảm đạm thay ánh nhật nguyệt phải mờ ”. Có thể thấy cái chết nào cũng đều đáng tiếc, trận ngã xuống nào cũng buồn thảm và đau đớn, âu cũng là sinh linh cả, một chốc mấy ngàn mạng bỏ, thì trời đất cũng phải tối tăm vì đâu ai muốn cảnh “ thây chất thành núi, cỏ nội đầm đìa máu đen ”. Cảnh quân giặc nôn nả xin hàng, giẫm đạp lên nhau mà bỏ trốn thật thảm hại, tan tác, xuất phát từ tấm lòng nhân nghĩa “ đánh kẻ chạy đi không ai đánh người chạy lại ” nên nghĩa quân ta đã cho giặc con đường về nước “ mở đường hiếu sinh ”, cấp thuyền, cấp ngựa, cấp lương thực cho chúng. Vừa khiến giặc phải nể nang, kính sợ, vừa để quân ta dưỡng sức, tránh đổ máu nhiều hơn nữa, bắt tay vào kiến thiết xây dựng quốc gia. Nếu đuổi cùng giết tận chắc như đinh để lại mối thù lớn trong lòng giặc, sớm muộn cũng có ngày chúng sang trả thù thêm, lúc ấy ắt ta phải chịu thiệt thòi, nên là lui một bước cũng nên, kế sách hòa hoãn của cha ông ta muôn đời luôn sáng suốt là vậy.

Phần ba của Bình Ngô đại cáo đã tái hiện lại một cách chân thực, sinh động quá trình khởi nghĩa, đánh đuổi quân Minh xâm lược của nghĩa quân Lam Sơn. Bằng giọng văn rất đỗi hào hùng, bi tráng, tiết tấu nhanh, dồn dập, những hình ảnh thiên nhiên giàu sức gợi, mang tính biểu tượng cao như mặt trời, mặt trăng, sông, núi hùng vĩ. Những hình ảnh đầy nhiệt huyết, sĩ khí bừng bừng của nghĩa quân được miêu tả bằng những cụm tính từ ở sắc thái cao nhất, đem so sánh với hình ảnh thiên nhiên to lớn, bao la. Luận điệu thuyết phục, dẫn chứng có thực trong lịch sử càng làm tăng sức lôi cuốn, đem đến một thiên anh hùng ca, một khúc tráng ca bất tận, vang động cả một thời, khẳng định sức mạnh và chân lý của dân tộc, đất nước.

Phân tích đoạn 3 Bình Ngô đại cáo mẫu 2

Nguyễn Trãi, bậc thi hào lỗi lạc của trên văn đàn văn học Việt Nam, với kiệt tác Bình Ngô Đại Cáo, nhà thơ đã để lại bản hùng ca thiên cổ cho thế hệ sau của dân tộc. Đặc biệt đoạn thơ thứ 3 chính là bản hùng ca hào hùng về cuộc khởi nghĩa Lam Sơn:

“Ta đây:

Núi Lam sơn dấy nghĩa

Chốn hoang dã nương mình

Ngẫm thù lớn há đội trời chung

Căm giặc nước thề không cùng sống

Đau lòng nhức óc, chốc đà mười mấy năm trời

Nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối.

Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh”

Đại từ ta mở đầu đoạn thơ ba như một lời khẳng định chắc chắn, hào hùng, thể hiện rõ tâm thế của người thủ lĩnh Lê Lợi. Hơn ai hết, là một vị tướng dẫn quân đánh trận, cũng là một bậc tôi trung, ông hiểu hơn ai hết cảm giác căm thù giặc đến tận xương tủy, mà như trong đoạn thơ đã khẳng định hùng hồn: căm thù giặc thề không cùng chung sống. Nhưng nếu chỉ giữ trong lòng ngọn lửa hận, thì sẽ sớm trở nên mù quáng và hồ đồ, do đó, vị chủ tướng ấy không chỉ mang trong mình nỗi hận niềm đau, mà còn dồn nén, chất chứa biết bao nhiêu niềm suy tư, trăn trở, đến nỗi “đau lòng nhức óc”, “nếm mật nằm gai”, “quên ăn vì giận”, những trăn trở về kế sách binh lược, và cũng cả những âu lo về khó khăn thách thức trong chặng đường phía trước sắp phải trải qua. Bước đầu kháng chiến những khó khăn là vô vàn không thể kể xiết, nhân tài như lá mùa thua, kẻ tài trí đỡ đần việc lớn thiếu thốn, chẳng có người chủ lực cùng sát cánh trường kì,  cả sự gian nan muôn trùng về binh lực so với đối thủ, ấy thế nhưng nó lại trở thành đòn bẩy để những người chiến sĩ kiên cường, quyết liệt kháng chiến. Cuối cùng,  ông trời không phụ lòng người, không phụ sự hi sinh nếm mật nằm gai đớn đau, vất vả của nghĩa quân Lam Sơn, đại sự đã thành công.

“Gươm mài đá, đá núi cũng mòn

Voi uống nước, nước sông phải cạn.

Đánh một trận, sạch không kình ngạc

Đánh hai trận tan tác chim muông.”

Hình ảnh thiên nhiên được sử dụng trong 4 câu thơ như một cách nói hình ảnh, khắc tạc chiến tích vĩ đại và sự hào hùng mà nghĩa quân Lam Sơn đã tạo ra. Hình ảnh gươm mài đá, đá núi cũng mòn, và voi uống nước, nước sông phải cạn, phải chăng muốn nhấn mạnh cho ta thấy tinh thần bền bỉ chiến đấu, sự kiên trì, hy sinh nhẫn nại của những người chiến sĩ nghĩa quân Lam Sơn, đồng thời chỉ ra cho ta một chân lí trong kháng chiến. Đó là kháng chiến trường kỳ, đồng thời cũng phần nào thấy được triết lý mà nhà thơ luôn tin tưởng, đó là những cuộc chiến đấu vì chính nghĩa luôn luôn giành chiến thắng xứng đáng. Các cụm từ miêu tả với động từ mạnh “sạch không kình ngạc, tan tác chim muông” đã cho thấy sức tiến công, chiến đấu và tinh thần quật cường, hào hùng của những binh lính tham gia chiến trận, chúng ta không chỉ giành chiến thắng mà còn giành chiến thắng vẻ vang, quét sạch nhuệ khí và sự hống hách, kiêu ngạo của kẻ thù:

“Bị ta chặn ở Lê Hoa, quân Vân Nam nghi ngờ khiếp vía mà vỡ mật!

Nghe Thăng thua ở Cần Trạm, quân Mộc Thạnh xéo lên nhau chạy để thoát thân.

Suối Lãnh Câu, máu chảy trôi chày, nước sông nghẹn ngào tiếng khóc

Thành Đan Xá, thây chất thành núi, cỏ nội đầm đìa máu đen.

Cứu binh hai đạo tan tành, quay gót chẳng kịp,

Quân giặc các thành khốn đốn, cởi giáp ra hàng

Tướng giặc bị cầm tù, như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng

Thần vũ chẳng giết hại, thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh

Mã Kỳ, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền, ra đến biển mà vẫn hồn bay phách lạc,

Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa, về đến nước mà vẫn tim đập chân run”

Cuối cùng, tác giả đã kết thúc đoạn ba của bài cáo với một giọng văn đầy từ hào khi tái hiện lại những thắng lợi vẻ vang, liên tiếp của nghĩa quân trong cuộc kháng chiến chống quân Minh xâm lược. Những thắng lợi góp phần lưu danh sử sách nghìn năm còn mãi, về một thời kì dân tộc, chiến sĩ của quân ta đã chiến đấu, chiến thắng, từ đó mà hun đúc nên tâm hồn yêu nước bất khuất, quật cường cho các thế hệ – cũng là nét đẹp riêng của con người Việt Nam lịch sử. Mở đầu cho chuỗi chiến tích lịch sử hào hùng của Nghĩa quân lam Sơn là chiến thắng Bồ Đằng, Trà Lân, rồi đến cả vùng Trần Trí, Sơn Thọ, Lý An,… và cứ thế, mạch thơ trở nên sôi nổi, đậm chất tráng ca khi liệt kê hàng loạt những chiến công lẫy lừng của vị chủ tướng Lê Lợi:

“Ngày mười tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế

Ngày hai mươi, trận Mã An, Liễu Thăng cụt đầu

Ngày hai lăm, bá tước Lương Minh bại trận tử vong

Ngày hăm tám, thượng thư Lí Khanh cùng kế tự vẫn”.

Tổng kết lại có thể thấy trong phần ba của bài cáo, Nguyễn Trãi chia làm ba phần lập luận chính, thứ nhất là tái hiện hình ảnh nghĩa quân Lam Sơn trong những ngày đầu kháng chiến khó khăn, gian khổ để có thể làm nên nghiệp lớn. Tiếp đó, là niềm tự hào và kiêu hãnh của tác giả khi không chỉ đánh thắng quân địch, mà còn làm chúng thua một cách tâm phục không phục bằng cách liệt kê những thất bại ê chề, nhục nhã của quân địch. Những câu thơ dài, với khí văn hào sảng đã toát lên rất rõ điều ấy. Những dòng thơ cuối, là dòng thơ khép lại, là dòng cảm xúc đã được lắng đọng, dồn nén, là bút lực sâu xa nhất mà nhà thơ gửi gắm, đó là niềm tin tưởng và khát mong một đất nước, giang sơn thiên thu còn mãi:

“Xã tắc từ đây vững bền

Giang sơn từ đây đổi mới

Xa gần bá cáo

Ai nấy đều hay”

Với giọng văn hào sảng, cùng cách lập luận sắc bén, sâu sắc, thuyết phục, Nguyễn Trãi đã biến Bình Ngô Đại Cáo như trở thành bản tuyên ngôn độc lập lần thứ hai của dân tộc, là bản tổng kết lịch sử hào hùng, là khúc tráng ca vĩ đại bất tận về quá trình chiến đấu, về chiến công, và về hình tượng người chiến sĩ lúc bấy giờ.

— — — — — — HẾT — — — — — —

Đoạn 3 bài Bình Ngô đại cáo đã mang đến cho chúng ta những cảm nhận chân thực về khí thế hào hùng, mạnh mẽ của nghĩa quân Lam Sơn trong cuộc kháng chiến chống quân Minh xâm lược. Khám phá thêm những nội dung đặc sắc của bài cáo, bên cạnh bài Phân tích khổ 3 bài Bình Ngô đại cáo, các em có thể tham khảo thêm: Thuyết minh Bình Ngô đại cáo, Phân tích hình tượng của chủ tướng Lê Lợi trong Đại cáo Bình Ngô, Phân tích khổ 2 bài Bình Ngô đại cáo, Cảm nhận bài Bình Ngô đại cáo.

Source: https://camnangbep.com
Category: Học tập

Camnangbep.com cũng giúp giải đáp những vấn đề sau đây:

  • Dàn ý đoạn 3 Bình Ngô đại cáo
  • đại cáo bình ngô – phần 2
  • Dàn ý đoạn 4 Bình Ngô đại cáo
  • Ta đây: Núi Lam Sơn dấy nghĩa Chốn hoang dã nương mình
  • Bình Ngô đại cáo thivien
  • Độc Truyện Bình Ngô Đại Cáo
  • Tư tưởng nhân nghĩa trong Bình Ngô đại cáo
  • Tư tưởng Nho giáo trong Bình Ngô đại cáo