Phân tích quá trình thức tỉnh của Chí Phèo [Bài viết ĐIỂM CAO] (9 mẫu)

Phân tích quá trình thức tỉnh của Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên của nhà văn Nam Cao để thấy đây là một trong những nhân vật có sức ám ảnh trong văn học. Quá trình từ một anh nông dân hiền lành đến khi trở thành tên chuyên rạch mặt ăn vạ, là “con quỷ của làng Vũ Đại” rồi bị cuộc đời cự tuyệt quyền làm người sẽ còn lay động mãi trong tâm trí người đọc. Trong nội dung bài viết dưới đây, hãy cùng DINHNGHIA.VN tìm hiểu và phân tích quá trình thức tỉnh của Chí Phèo.

Camnangbep.com cũng giúp giải đáp những vấn đề sau đây:

  • Quá trình thức tỉnh của Chí Phèo Facebook
  • Tóm tắt quá trình thức tỉnh của Chí Phèo
  • Sự thức tỉnh của Chí Phèo
  • Dàn ý quá trình thức tỉnh của Chí Phèo sau khi gặp Thị Nở
  • Viết một đoạn văn ngắn về sự thức tỉnh của Chí Phèo
  • Quá trình hồi sinh của Chí Phèo giáo án
  • Về sơ đồ tư duy vẻ quá trình hồi sinh của chí phèo
  • Khát vọng lương thiện của Chí Phèo
phân tích quá trình thức tỉnh của chí phèo
phân tích quá trình thức tỉnh của chí phèo

YouTube video

 

Một số mở bài phân tích quá trình thức tỉnh của Chí Phèo

Mở bài 1: Chủ đề về người nông dân trong văn học hiện đại được xem là chủ đề quen thuộc đề cao về quyền sống của những con người nhỏ bé và khát khao được sống của họ. Cùng với đó là nỗi xót thương thay cho những con người có thân phận nhỏ bé bị xã hội đẩy vào bước đường cùng. Điển hình rõ ràng nhất cho điều này chính là Chí Phèo của Nam Cao là tác phẩm có tiếng vang lớn trong thời kì văn học hiện đại. Phân tích quá trình thức tỉnh của Chí Phèo sẽ thấy rất rõ điều đó.

Mở bài 2: Nhà văn Nam Cao (1915 – 1951) được biết đến là một trong những nhà văn lớn nhất của nền văn xuôi Việt Nam hiện đại. Những sáng tác của ông đã vượt qua được thử thách khắc nghiệt của thời gian và sống mãi trong lòng bạn đọc nhiều thế hệ. Nam Cao còn là một nhà văn lớn của trào lưu văn học hiện thực phê phán 1930 -1945 và chuyên viết về hai đề tài lớn: người nông dân bị bần cùng hóa và người trí thức sống lay lắt trong xã hội cũ. Trong đó, Chí Phèo chính là một kiệt tác điển hình cho phong cách nghệ thuật của nhà văn. Nhân vật chính Chí Phèo từ một người nông dân lương thiện cho đến bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người. Phân tích quá trình thức tỉnh của Chí Phèo sẽ cho thấy khát khao về thiện lương, về hạnh phúc của con người ấy.

Mở bài 3: Cùng với “Đời thừa”, “Giăng sáng” thì “Chí Phèo” là một trong những tác phẩm thành công của nhà văn Nam Cao. Ngòi bút hiện thực phê phán cùng với tinh thần nhân đạo sâu sắc được thể hiện rõ nét qua nhân vật Chí Phèo trong tác phẩm. Chí Phèo được biết đến là con quỷ dữ của làng Vũ Đại – người bị cuộc đời cự tuyệt của cuộc đời. Phân tích quá trình thức tỉnh của Chí Phèo sẽ thấy một người tưởng chừng bất hạnh ấy vẫn mong ước về cuộc sống rất “đời thường” với những hạnh phúc nhỏ nhoi…

Mở bài 4: Văn học hiện thực giai đoạn 1930 – 1945 với nhiều trang viết về thân phận khốn khổ của những người nông dân đã thể hiện tinh thần nhân đạo một cách sâu sắc. Nam Cao – một cây bút sáng tạo, không ngừng đào sâu tìm tòi và khai phá tâm lý nhân vật đã có những phát hiện rất đáng trân trọng. Không dừng lại ở nỗi khổ bởi sưu cao thuế nặng như các tác phẩm cùng thời “Tắt đèn” hay “Bước đường cùng”, nhà văn đã đi sâu vào hiện thực người nông dân bị bần cùng hóa, lưu manh hóa và bị cự tuyệt quyền làm người. Bên cạnh đó thì nhà văn cũng phát hiện và khẳng định bản chất lương thiện của người nông dân trong xã hội cũ. Tác phẩm “Chí Phèo” là một kiệt tác điển hình về chủ đề đó. Tìm hiểu nhân vật nói chung cũng như phân tích quá trình thức tỉnh của Chí Phèo nói riêng sẽ cho thấy rất rõ điều đó.

Sơ nét về tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao 

Phong cách sáng tác và quan điểm nghệ thuật của Nam Cao trước Cách mạng tập trung vào hai chủ đề chính: người tri thức nghèo và người nông dân nghèo. Ông được xem là cây bút xuất sắc về đề tài người nông dân với vô số tác phẩm lớn, đặc biệt là Chí Phèo – một tác phẩm tiêu biểu của đề tài người nông dân đã tạo nên tiếng vang lớn trong giai đoạn văn học hiện đại.

Trong tác phẩm, nhân vật Chí Phèo được biết là một người nông dân nghèo, từ một người lương thiện đã trở thành một con quỷ dữ của làng Vũ Đại chuyên đi rạch mặt ăn vạ. Chí Phèo từ khi chào đời đã bị bỏ rơi ở cái lò gạch cũ, hắn qua tay rất nhiều người nuôi, nhưng có lẽ rằng chưa khi nào hắn có được một mái ấm gia đình thật sự .
Lớn lên, Chí Phèo là một chàng trai nông dân nghèo hiền lành, chịu khó thao tác, nhưng chỉ vì sự ghen tuông của bá Kiến nên hắn đã bị bắt bỏ vào tù. Trải qua mấy năm trong tù, hắn đã trọn vẹn biến hóa. Chí Phèo đã rơi vào thảm kịch tha hóa. Hắn trở thành một tên côn đồ, một tên nát rượu, ăn vạ, chuyên đi dọa nạt người khác .
Nối tiếp đó chính là hắn đã trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại, chuyên đi rạch mặt ăn vạ. Nhưng sau khi gặp được thị Nở, sau khi được cho bát cháo hành, nhận được tình yêu thương, tình người từ thị, hắn đã thức tỉnh .

Phân tích quá trình thức tỉnh của Chí Phèo – Ngữ Văn 11

Phân tích nhân vật Chí Phèo nói chung hay khi phân tích quá trình thức tỉnh của Chí Phèo thì cần tóm tắt cuộc đời của Chí trước khi trở thành con quỷ của làng Vũ Đại, đến lần đầu thức tỉnh bị cự tuyệt quyền làm người, tâm trạng khi được Thị nấu cho bát cháo hành rồi cái kết đòi thiện lương tại nhà Bá Kiến.

Tóm tắt cuộc đời của Chí Phèo trước khi gặp Thị Nở

Chí Phèo là một đứa trẻ bị bỏ rơi, sau đó được một anh đi thả ống lươn nhặt được ở cái lò gạch cũ. Tuổi thơ Chí qua tay hết người này đến người kia và lớn lên trở thành một anh canh điền cho Bá Kiến. Sau đó bị vợ Bá Kiến dụ dỗ rồi khiến hắn ghen mà đẩy vào tù. Và một thằng lưu manh sinh ra từ một anh nông dân sau bảy tám năm trong nhà tù thực dân .
Khi ra tù thì Chí đã tìm đến nhà Bá Kiến nhằm mục đích trả thù. Lúc này thì thực chất của một tên lưu manh biến chất được bộc lộ trong cách chửi rất chuyên nghiệp ngoa ngoắt của hắn “ … Hắn vừa đi lại vừa chửi, khi nào cũng thế, cứ rượu xong là hắn lại chửi. Hắn chửi trời có hề gì vì trời đâu có của riêng nhà nào … ”. Từ dáng hình gớm ghiếc đáng sợ của hắn cho đến cách rạch mặt ăn vạ đều cho thấy đời sống “ khác người ” của hắn. Chính xã hội phong kiến mà đại diện thay mặt chính là Bá Kiến đã triển khai xong nốt quy trình lưu manh hóa để biến Chí Phèo thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại .

Lần đầu thức tỉnh khi bị cự tuyệt quyền làm người 

Thức tỉnh nhưng cũng chính là lúc hắn phải chịu thêm một bi kịch mới, đó là chính là bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người. Phân tích quá trình thức tỉnh của Chí Phèo sẽ thấy lần đầu tiên hắn tỉnh dậy sau một cơn say dài thì điều đầu tiên là “lòng mơ hồ buồn”. Hắn bắt đầu nhận thức, hắn bắt đầu tỉnh táo dần. Nhưng nỗi buồn ấy có phần mông lung, chưa rõ ràng.

Tiếp đến đó chính là “chao ôi là buồn”. Đây là một nỗi buồn có phần thấm thía day dứt đối với hắn. Nếu ở trên nỗi buồn chưa có nguyên nhân thì ở đây nỗi buồn ấy lại có nguyên nhân rõ ràng, đó là hắn đã nghe được tiếng chim hót “Tiếng chim hót ngoài kia sao vui vẻ quá! Có tiếng cười nói của những người đi chợ. Anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá. Những tiếng quen thuộc ấy hôm nào chả có, nhưng hôm nay hắn mới nghe thấy…”. Những âm thanh của cuộc sống bình dị nhưng đối với Chí Phèo thì những âm thanh ấy lại quý giá vô cùng. Chính âm thanh ấy đã đưa Chí Phèo về với thực tại.

Và tiếp theo thì hắn “ lại nao nao buồn ”, chính cái nao nao buồn ấy đã miêu tả tâm trạng xốn xao khiến hắn thôi thúc không ngừng tâm lý. Hắn mở màn nhớ về tham vọng của chính mình “ nhắc cho hắn một cái gì rất xa xôi. Hình như đã có một thời hắn đã ao ước có một mái ấm gia đình nho nhỏ. Chồng cuốc mướn làm thuê, còn vợ dệt vải. Chúng lại bỏ thêm một con lợn nuôi để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm … ”. Hắn chợt nhớ đến cái tham vọng nhỏ bé đến tội nghiệp .
Và hắn mở màn “ buồn thay cho đời ”, nỗi buồn ấy mang tính khái quát hơn, hắn buồn cho cuộc sống hắn, buồn cho kiếp làm người của hắn. Còn gì buồn hơn, đau đớn hơn khi chính mình lại buồn, lại chán chê cho chính cuộc sống mình. Và hắn đã biết sợ. Hắn sợ tuổi già, sợ đói rét, sợ ốm đau. Bởi lẽ hắn ý thức được cái nghề rạch mặt ăn vạ không hề lê dài mãi .
Hắn thấy mình đã ở bên kia cái dốc của cuộc sống nhưng hắn vẫn chẳng có gì ở trong tay. Khi nghiên cứu và phân tích quá trình thức tỉnh của Chí Phèo, ta thấy nỗi sợ chính là tín hiệu rõ ràng nhất chứng tỏ hắn đã khởi đầu trên những nấc thang tiên phong để quay trở lại làm người. Nỗi sợ đã thức tỉnh phần người trong hắn .
phân tích quá trình thức tỉnh của chí phèo trong tác phẩm của nam cao

Tâm trạng của Chí Phèo khi Thị Nở quay lại với bát cháo hành

Nối tiếp tâm trạng lần tiên phong của Chí Phèo sau khi tỉnh dậy thì chính là tâm trạng khi thị Nở quay lại trong quá trình thức tỉnh của nhân vật. Đầu tiên, hắn quá bất ngờ. Ngạc nhiên khi thấy thị trở lại và trên tay bưng bát cháo hành. Vì lần tiên phong trong cuộc sống hắn được người ta cho một thứ gì đó mà không phải dọa nạt hay cướp giật, lần tiên phong trong cuộc sống hắn được chăm nom …
Đó là lần tiên phong trong cuộc sống hắn nhận được sự yêu thương và cũng là lần tiên phong trong cuộc sống hắn nhận được sự chăm sóc, săn sóc từ một người phụ nữ. Bởi ngay chính người mẹ sinh ra hắn cũng chưa một lần chăm nom hắn. Hay chính bà Ba tìm đến hắn thì cũng chỉ để thỏa mãn nhu cầu dục vọng chứ không yêu thương gì hết .
Phân tích quá trình thức tỉnh của Chí Phèo sẽ thấy bát cháo hành thị Nở bưng đến cho hắn tuy giản dị và đơn giản nhưng xuất phát từ sự tự nguyện, chân thành. Vì vậy, nó đáng quý biết bao. Như bị lay động, hắn đã khóc. Mắt hình như hơi ươn ướt. Hắn vô cùng xúc động, giọt nước mắt ấy xuất phát từ tận đáy lòng của hắn. Giọt nước mắt ấy dẫn chứng cho sự trân quý tình người mà hắn mới vừa nhận được. Giọt nước mắt thức tỉnh, ép chế phần con trong hắn. Đây cũng chính là giá trị nhân đạo mà Nam Cao muốn truyền tải. Đó là niềm tin vào thực chất của con người .
Quá trình thức tỉnh của Chí Phèo không riêng gì bộc lộ qua tâm trạng, hành vi và cảm hứng mà còn bộc lộ qua cách hắn chiêm ngưỡng và thưởng thức bát cháo hành mà thị Nở làm cho hắn. Đó là một chuỗi hành vi tiếp nối đuôi nhau, nhìn rồi cầm, sau đó ngửi và húp và ngon. Quá trình ấy được miêu tả một cách đơn cử, tỉ mỉ. Điều ấy cho thấy sự trân trọng của Chí Phèo so với “ bát cháo tình người ” mà hắn mới vừa nhận được .
Hắn đã cảm nhận bát cháo bằng tổng thể giác quan. Và sau này, mùi cháo hành ấy có lẽ rằng sẽ theo hắn suốt cả cuộc sống. Bởi vì bát cháo hành ấy không đơn thuần là bát cháo giải rượu mà đó chính là hình tượng cho tình thương, sự chăm nom, chăm sóc cho tình yêu, tình người mà hắn vừa nhận được. Phân tích quá trình thức tỉnh của Chí Phèo sẽ thấy so với người thông thường nhận được tình yêu thương cũng không thuận tiện gì, thì so với Chí Phèo, đó là một món quà vô giá. Vì vậy, đó là một ký ức không thể nào quên, như một sự nhắc nhở về thiên lương trong hắn vậy .
Hắn đã tỉnh, vì hắn đã trở lại nên bộc lộ tiếp theo được biểu lộ rất rõ ràng đó chính là khát khao mong ước được lương thiện của Chí Phèo. Hắn như muốn trở thành đứa trẻ thơ. Còn có cả “ Trời ơi ! Hắn thèm lương thiện, hắn lại muốn làm hòa với mọi người biết bao ! Thị Nở sẽ là người mở đường cho hắn. Thị hoàn toàn có thể sống yên ổn với hắn thì sao người khác lại không hề được. ” và rồi “ Họ sẽ nhận lại hắn vào cái xã hội phẳng phiu và thân thiện của những người lương thiện. ”
Có thể thấy những tâm lý ấy đã biểu lộ mong ước quay trở lại làm người lương thiện của hắn. Lúc này, hắn khát khao trở lại đời sống thông thường. Chính tình yêu thương của thị đã vực dậy tình cảm, tình người trong hắn lâu nay đã bị vùi lấp bởi bộ mặt con quỷ dữ. Thị đã làm hồi sinh thực chất lương thiện trong Chí Phèo và mở ra cho hắn một kỳ vọng, một ý nghĩa trong đời sống tăm tối của hắn. Qua đó, Nam Cao đã đề cao giá trị nhân đạo ở đây chính là niềm tin vào thực chất, thiên lương của con người .

Bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người lần nữa của Chí Phèo

Phân tích quá trình thức tỉnh của Chí Phèo, ta thấy khi Chí bị cự tuyệt quyền làm người thì một trong những nguyên do chính là thời gian thị rời bỏ hắn. Hình như đó chính do xuất phát từ lời nói của bà cô thị Nở rằng “ Cũng có lẽ rằng bà tủi cho thân bà. Bà nghĩ đến cuộc sống dài dằng dặc của bà, không có chồng, rồi bà thấy chua xót lắm. Bà uất ức, uất ức mà không ai không biết. ” và “ Ai đời lại còn đi lấy chồng ! Ừ ! Mà có lấy thì lấy ai chứ ? … Đàn ông đã chết hết cả rồi hay sao mà lại đâm đầu vào đi lấy một thằng không cha. Ai lại đi lấy thằng chỉ có cái nghề là rạch mặt ra ăn vạ. ” .
Thông qua lời nói cho thấy lời nói của bà cô thị Nở nóng bức là đại diện thay mặt cho định kiến xã hội, cho những ý niệm cổ hữu, khắc nghiệt đã ăn sâu vào tâm lý của những con người lỗi thời, ích kỷ, hẹp hòi. Bà cô không muốn cho thị Nở đến với Chí Phèo là Chí Phèo không có mái ấm gia đình, không có việc làm không thay đổi. Không chỉ vậy, bà ngăn cản tình yêu giữa Chí Phèo và thị Nở còn vì sự ganh tị. Tình thương đã mong manh dễ tan vỡ, không dễ gì có được đã bị định kiến kia làm vỡ vụn tình yêu thương .
Thị Nở như chiếc phao cứu sinh ở đầu cuối mà hắn là người chết đuối vừa níu được nên hắn tìm mọi cách để níu giữ thời cơ mong manh để quay trở lại làm người lương thiện. Hắn lại đi uống rượu. Hắn tìm đến men rượu để quên đi cảm xúc lúc này. Nhưng càng uống hắn chỉ càng cảm thấy đơn độc, vô vọng. Càng uống hắn lại càng tỉnh và càng cảm thấy buồn …
Hắn thoáng thấy hương cháo hành và thế là hắn ôm mặt khóc. Lần này hắn khóc không phải vì bát cháo hành mà là vì hắn hụt hẫng cho tình cảm, tình yêu thương mà hắn nhận được, đó cũng là giọt nước mắt bất lực, chính xã hội ấy đã đẩy hắn vào con đường thảm kịch này. Đến khi hắn muốn quay trở lại thì cũng chính xã hội ấy lại không gật đầu hắn. Phân tích quá trình thức tỉnh của Chí Phèo sẽ thấy nguyên do chính khiến hắn thành ra như thời điểm ngày hôm nay chính là cái mà người ta hay gọi là giai cấp thống trị – bá Kiến .

Cái kết đi đòi quyền lương thiện nhà bá Kiến của Chí Phèo 

Tác giả đã khắc họa rực rỡ tâm trạng của Chí Phèo khi hắn trên đường đến nhà bá Kiến, để đòi lương thiện. Trong cơn say, Chí Phèo muốn đi đến nhà thị Nở nhưng trong vô thức hắn lại đi thẳng đến nhà bá Kiến. Chí Phèo tìm đến nhà bá Kiếm bởi lẽ có vẻ như Chí cũng ý thức được rằng chính bá Kiến là nguyên do đẩy hắn vào bước đường này .
Phân tích quá trình thức tỉnh của Chí Phèo sẽ thấy hắn tìm đến nhà bá Kiến trong một tư thế rất cao ngạo. Nhưng bá Kiến lại tưởng Chí Phèo đến xin tiền nên “ ném bẹt năm hào xuống đất ”. Nhưng Chí Phèo không đến đây xin tiền mà đến để đòi lương thiện, đòi lại quyền làm người của hắn. Hắn muốn trở lại Chí Phèo như trước kia. Đó chính là nguyên do vì sao hắn lại cao ngạo đến thế. Vì vậy, khi bá Kiến ném cho hắn năm hào, hắn cảm xúc rất tức tối. Hắn đã dõng dạc mà nói “ Tao muốn làm người lương thiện ” – câu nói mang tính khẳng định chắc chắn mong ước quay trở về làm con người thông thường, trở lại làm người lương thiện như trước đây. Càng xót xa hơn khi “ Ai cho tao lương thiện ? ” được cất lên – câu hỏi đầy đau đớn và chua xót …

Tao không thể là người lương thiện nữa”. Và chính Chí Phèo cũng ý thức rõ rằng hắn không thể quay về được nữa. Bởi chính vì không thể tiếp tục làm con quỷ dữ, hắn lại càng không thể quay trở về làm chàng trai Chí Phèo hiền lành của trước đây, nên hắn đã giải quyết bằng một con đường khác. Chí Phèo giết chết bá Kiến và tự sát. Hành động giết chết bá Kiến của Chí Phèo như một sự “trả thù” cho kẻ đã đẩy hắn vào bước đường cùng không lối thoát.

Và có vẻ như cũng chỉ có Chí Phèo – kẻ say nhất, điên nhất của làng Vũ Đại mới dám làm điều đó. Và hành vi tự sát của Chí Phèo vừa là cách giải thoát cho cuộc sống hắn, vừa bộc lộ được một thảm kịch đau đớn đến vô vọng. Bởi lẽ sau khi cảm nhận được tình yêu thương, sau khi mong ước được làm người lương thiện trỗi dậy trong Chí thì hắn không thể nào quay về liên tục trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại nữa. Hắn cũng chẳng còn hoàn toàn có thể làm người lương thiện một lần nữa nên cái chết so với hắn là cách xử lý tốt nhất cho cuộc sống Chí Phèo trong thực trạng xã hội .
Cái chết ấy còn cho thấy sự vô vọng, đau đớn và đầy bất lực bởi khi Chí Phèo chết đi có vẻ như không ai đau xót cho hắn mà họ còn cảm thấy mừng thầm “ Trời có mắt đấy, đồng đội ạ ! ”, “ Thằng nào chứ hai thằng ấy chết thì không có ai tiếc ! ”. Bởi lẽ họ cảm thấy chính cái chết của hắn như một sự giải thoát cho cả làng Vũ Đại. Nên họ chỉ đứng đó nhìn Chí Phèo “ đang giãy đành đạch ở giữa bao nhiêu là máu tươi. ” .

Thật vậy, lúc hắn thức tỉnh cũng chính là lúc hắn phải biến mất. Lúc hắn muốn làm người cũng chính xã hội đã ép hắn điên cuồng khao khát lương thiện. Nhưng đổi lại hắn lại nhận được những cái nhìn thờ ơ của bao người. Không một ai chấp nhận cho hắn tồn tại trong xã hội này nữa, và cũng không một ai quan tâm đến cái khát khao được sống của hắn. Quá trình thức tỉnh diễn ra lại là mở đầu cho một bi kịch khác, đau đớn hơn, tàn nhẫn hơn. Nam Cao đã thật sự thành công trong việc mang đến cho người đọc những giá trị tư tưởng cao cả, mới mẻ và độc đáo thông qua nhân vật điển hình Chí Phèo.

Đánh giá tác phẩm khi phân tích quá trình thức tỉnh của Chí Phèo

Nghệ thuật kể chuyện có sự phối hợp giọng văn của người kể chuyện và giọng nói của nhân vật cùng thẩm mỹ và nghệ thuật kiến thiết xây dựng diễn biến rất đầy đủ từ phần thắt nút rồi cao trào cho đến mở nút, cấu trúc đầu cuối tương ứng, giọng điệu vừa hờ hững lại vừa chua xót. Nghệ thuật độc lạ và kĩ năng trong ngòi bút của Nam Cao đã làm điển hình nổi bật nội dung của tác phẩm .
Chủ đề về người nông dân nghèo, về khát khao được sống trong xã hội công minh là ý nghĩa nhân văn mà Nam Cao muốn đề cập đến trong tác phẩm. Phân tích quá trình thức tỉnh của Chí Phèo cũng khiến người đọc cảm nhận được ý nghĩa sâu xa về thái độ trân trọng, cũng là tôn vinh phẩm chất, tin cậy vào thực chất người nông dân tuy nghèo nhưng không tham lam, mà ngay thật ngay thật dù trong mọi thực trạng. Đồng thời, tác giả đã lên án, tố cáo những thế lực chà đạp lên quyền sống của con người, đẩy những người có thân phận nhỏ bé vào bước đường cùng, rơi vào thảm kịch đau đớn mà không sao thoát ra được .

Một số kết bài phân tích quá trình thức tỉnh của Chí Phèo

Kết bài 1 : Văn học là nhân học, văn học xuất phát từ hiện thực cuộc sống và đích đến chính là trái tim. Chí Phèo của Nam Cao đã thực sự trở thành một siêu phẩm trong trào lưu văn học hiện thực phê phán 1930 – 1945 nói riêng, cho văn học văn minh Nước Ta nói chung. “ Chí Phèo ” chính là một tác phẩm lớn và có tiếng vang trong thời kì văn học văn minh, được xem là tác phẩm nổi bật khi nhắc đến chủ đề người nông dân trong toàn cảnh xã hội lúc bấy giờ .

Kết bài 2: Nam Cao đã thể hiện sự thương cảm và tấm lòng trân trọng sâu sắc với bi kịch của những người nông dân trong xã hội cũ. Bên cạnh đó, nhà văn cũng khẳng định sức sống bất diệt của thiện lương. Mong muốn một cuộc sống đời thường hạnh phúc chính là bản tính tự nhiên tốt đẹp của con người. Đây là khát khao mà không một thế lực nào có thể hủy diệt được. Thông qua việc phân tích quá trình thức tỉnh của Chí Phèo, ta còn thấy Nam Cao đã nhắc nhở và kêu gọi mọi người hãy tin vào bản chất thiện lương tốt đẹp của mỗi người, đồng thời hãy xây đắp phần người trong mỗi con người để cuộc đời sẽ ngày một đẹp hơn.

Dàn ý phân tích quá trình thức tỉnh của chí phèo – Ngữ Văn 11

Để giúp bạn nhanh gọn nắm được nội dung cùng với giá trị của tác phẩm, dưới đây DINHNGHIA.VN sẽ giúp bạn lập dàn ý nghiên cứu và phân tích quá trình thức tỉnh của Chí Phèo .

Mở bài phân tích quá trình thức tỉnh của Chí Phèo

  • Giới thiệu sơ nét về tác giả Nam Cao .
  • Tóm lược giá trị tư tưởng của tác phẩm Chí Phèo .
  • Có thể đi từ đề tài người nông dân trong xã hội cũ .
  • Dẫn dắt yếu tố : nghiên cứu và phân tích quá trình thức tỉnh của Chí Phèo .

Thân bài phân tích quá trình thức tỉnh của Chí Phèo

  • Tóm tắt đôi nét về cuộc sống của Chí Phèo trước khi bị tha hóa .
  • Phân tích quá trình thức tỉnh của Chí Phèo qua những chi tiết cụ thể đơn cử :
    • Chí Phèo được thức tỉnh về bản năng .
    • Chí Phèo được thức tỉnh bằng nhân tính .
      • Nhận thức được quốc tế xung quanh .
      • Nhận thức về chính bản thân mình .
  • Bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người một lần nữa của Chí .
    • Nguyên nhân là bởi chính bà cô Thị không cho Thị qua lại với Chí. Hình ảnh bà cô đại diện thay mặt cho định kiến xã hội .
    • Những đau đớn tuyệt vọng “ rưng rưng khóc ” của Chí .
    • Sự tuyệt vọng phẫn uất cùng cực của Chí khi lần nữa bị cự tuyệt với thiện lương .
  • Cái kết của Chí Phèo khi đến nhà bá Kiến đòi thiện lương

Kết bài phân tích quá trình thức tỉnh của Chí Phèo

  • Khái quát nội dung bài viết ( những ý chính ) cùng với giá trị của tác phẩm .
  • Nhấn mạnh đây là một tác phẩm hiện thực mang tính nhân đạo thâm thúy .
  • Khẳng định năng lực của nhà văn Nam Cao trong việc miêu tả và khắc họa tâm ý nhân vật .
  • Bày tỏ 1 số ít cảm nhận của bản thân khi nghiên cứu và phân tích quá trình thức tỉnh của Chí Phèo .

Phân tích quá trình thức tỉnh của Chí Phèo mẫu 1

Nam Cao là một nhà văn hiện thực lớn có tư tưởng nhân đạo vừa sâu sắc, mới mẻ, vừa độc đáo. Ông là nhà văn hiện thực xuất sắc tràn đầy tinh thần nhân đạo, chuyên viết về hai đề tài: người trí thức nghèo sống mòn mỏi, bế tắc trong xã hội cũ và người nông dân bị bần cùng hóa, lưu manh hóa trước Cách mạng tháng Tám. Trong đó, Chí Phèo là một kiệt tác trong văn xuôi Việt Nam hiện đại của nhà văn Nam Cao viết vào năm 1941. Truyện kể lại cuộc đời của một người dân cùng khổ tên là Chí Phèo. Chí Phèo là biểu hiện sống động của bi kịch sinh ra là người mà không được làm người. Câu chuyện có nhiều bi kịch, nhưng đặc biệt, trong đó quá trình thức tỉnh hồi sinh và bi kịch cự tuyệt của Chí Phèo trong tác phẩm là một trong những đoạn thể hiện sâu sắc ý nghĩa nhân văn và giá trị nhân đạo của tác phẩm.

Chí Phèo, nguyên là một đứa con hoang, bị bỏ rơi nơi lò gạch cũ khi vừa mới lọt lòng, vốn là người nông dân hiền lành, lương thiện nhưng đã bị xã hội phong kiến bóc lột, đè nén, áp bức trở thành “con quỷ dữ làng Vũ Đại”. Bá Kiến đã đẩy Chí Phèo vào tù, biến Chí từ một người nông dân hiền lành trở thành một thằng lưu manh và trở thành tay sai đắc lực cho bọn cường hào trong làng. Chí gần như sống trong vô thức, bị xã hội ruồng bỏ, bị cướp mất quyền làm người, bị cướp đi cả nhân hình lẫn nhân tính. Và cứ thế Chí Phèo say triền miên. Say để quên đi quyền làm người, say để làm những việc mà người ta giao cho hắn làm, đốt phá, cướp giật, doạ nạt… của bao người dân lương thiện. Những cơn say của hắn tràn cơn này sang cơn khác, thành một cơn dài, mênh mông, hắn ăn trong lúc say, thức dậy hãy còn say… Chưa bao giờ hắn tỉnh, và có lẽ hắn chưa bao giờ tỉnh táo, để nhớ có hắn ở đời.

Cứ tưởng Chí Phèo mãi mãi sống kiếp thú vật, rồi sẽ kết thúc bằng cách vùi xác ở một bờ bụi nào đó, nhưng bằng tài năng và nhất là bằng trái tim nhân đạo của một nhà văn lớn, Nam Cao đã để Chí Phèo trở về sống kiếp người một cách tự nhiên. Ông đã soi rọi ánh sáng của tình yêu thương vào tận đáy tâm hồn đen tối của con quỷ dữ làng Vũ Đại. Trong một đêm say, hắn tình cờ gặp Thị Nở – người đàn bà dở hơi xấu xí, và quá lứa lỡ thì. Đêm hôm ấy, họ ăn nằm với nhau, sự chung đụng ngẫu nhiên ấy, mang tính bản năng của người đàn ông trong cơn say. Những phẩm chất của người nông dân lao động tiềm tàng sâu trong con người hắn bất chợt được khơi dậy. Chút tình yêu thương mộc mạc, tự nhiên cộng với sự quan tâm chăm sóc giản dị của Thị Nở đã đánh thức lương tri, đánh thức bản chất lương thiện vốn có trong con người Chí. Chính nhờ cuộc gặp gỡ đó, đã thức tỉnh phần người trong Chí, giúp Chí cởi bỏ cái vỏ quỉ dữ để sống lại làm người, khao khát hoàn lương, lương thiện.

Đoạn văn miêu tả tâm trạng Chí Phèo sau đêm gặp Thị Nở chứng tỏ Nam Cao xứng đáng bậc thầy về phân tích tâm lí nhân vật. Tỉnh rượu, Chí thấy lòng chợt bâng khuâng ”mơ hồ buồn”. Những lần trước, mỗi khi tỉnh rượu, hắn lại uống, vì thế say kế tiếp say. Còn lần này, Chí Phèo tỉnh rượu với trạng thái khác hẳn “người thì bủn rủn, chân tay không buồn nhấc; hay là đói rượu, hắn hơi rùng mình. Ruột gan lại nôn nao lên một tí. Hắn sợ rượu như những người ốm sợ cơm”. Sau bao năm, lần đầu tiên trong cuộc đời Chí tỉnh dậy, chợt nhận ra nơi căn lều ẩm thấp là ánh nắng ngoài kia rực rỡ biết bao, nghe thấy mọi âm thanh của cuộc sống: tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá, tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá trên sông, tiếng lao xao của người đi chợ bán vải về… Những âm thanh quen thuộc ấy hôm nào mà chả có, nhưng hôm nay Chí mới cảm nhận và nghe thấy, vì hôm nay Chí đã hết say. Phải chăng, những âm thanh ấy chính là tiếng gọi náo nức, thiết tha, tiếng gọi thôi thúc của cuộc sống đã vang lên rộn ràng trong tâm hồn vừa được khơi dậy của Chí… Sau đó Chí tỉnh ngộ, nhìn lại cuộc đời mình cả trong quá khứ, hiện tại và tương lai. Hơn hết, cái ước mơ bình dị ngày nào ”có một gia đình nho nhỏ, chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải…” bỗng dưng trở lại với Chí. Chí đã tỉnh rượu và thức tỉnh về tình cảm và nhận thức. Chí thấy hiện tại của mình thật đáng buồn bởi “hắn đã tới cái dốc bên kia của cuộc đời”. Tương lai đối với hắn, còn đáng buồn hơn, hắn còn lo sợ bởi hắn đã trông thấy trước “tuổi già, đói rét và ốm đau” và nhất là “cô độc”. Sau những tháng ngày sống gần như vô thức, Chí đã tỉnh táo và triền miên trong suy nghĩ và xúc động. Như vậy, với sự trở lại của lí trí và nhận thức về chính mình, cùng những tình cảm, cảm xúc của một con người, Chí đang thức tỉnh một cách toàn diện cả về nhận thức và ý thức và bắt đầu hồi sinh để trở về với kiếp người. Ngòi bút Nam Cao ở đây thật ấm áp, thể hiện từng biểu hiện của sự thức tỉnh ở Chí Phèo. Ông thật sự rất yêu quý những người lao động chân chính. Vì hoàn cảnh mà họ bị đẩy vào con đường tội lỗi. Nhưng ngay cả khi bị cuộc đời làm biến dạng nhân hình và làm méo mó nhân tính thì Nam Cam vẫn nhìn thấy vẻ đẹp trong sáng luôn tiềm ẩn trong con người họ. Họ chỉ cần gặp điều kiện thuận lợi thì phần người sẽ bừng dậy một cách mạnh mẽ.

Đúng lúc ấy thì Thị Nở bưng đến cho Chí Phèo bát cháo hành đang nghi ngút khói. Và nếu như Thị Nở không qua, chắc là hắn đã khóc được mất. Việc làm này của thị khiến hắn từ ”hết sức ngạc nhiên” đến xúc động ”thấy mắt mình như ươn ướt” bởi vì một lẽ hết sức đơn giản “lần đầu tiên hắn được người ta cho…”, “đời hắn chưa bao giờ được săn sóc bởi bàn tay đàn bà”. Hắn còn cảm nhận về hương vị cháo hành, nó thơm và ngon lắm. Thị Nở còn cảm nhận thấy hắn rất hiền. Dưới ánh sáng của tình yêu, thị Nở bỗng trở thành một người đàn bà có duyên, cũng biết lườm yêu, biết e lệ, biết ”ngượng ngùng mà thinh thích khi nghe hai tiếng ”vợ chồng”. Bát cháo hành của thị Nở làm hắn suy nghĩ nhiều. Trái tim tưởng chừng như chai đá của Chí Phèo đã dần dần sống dậy. Cái phần người trong hắn cũng hồi sinh. Chí đã sống đúng với con người thật của mình, trở lại nguyên hình của anh canh điền ngày xưa. Hành động chăm sóc đầy tình cảm yêu thương ấy làm tâm trạng Chí đi từ xúc động đến ăn năn, hồi tỉnh. Tình yêu của Thị Nở đã mở đường cho Chí Phèo trở lại làm người: “Trời ơi! Hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao… Thị có thể sống yên ổn với hắn thì sao người khác lại không thể được”. Cùng với mong ước được làm người lương thiện, Chí khao khát hạnh phúc và một mái ấm gia đình. Và hắn nói “Giá cứ thế này mãi thì thích nhỉ?”. Lúc này nội tâm của Chí đã bừng tỉnh, lương tri của hắn đã trỗi dậy mà thôi thúc tình cảm hắn. Hắn thật sự muốn ”thế này” đó là muốn được ăn cháo hành, được sống bên cạnh thị Nở, được thị quan tâm, chăm sóc, yêu thương và được làm nũng với thị… “Hay là mình sang đây ở với tớ một nhà cho vui” một mái ấm gia đình vui vẻ, hạnh phúc, câu nói này giống như một lời cầu hôn của Chí với thị Nở – một lời cầu hôn rất canh điền, chất phác, giản dị. Hắn muốn sống như một con người đúng nghĩa, khao khát được trở lại với cuộc sống bình thường, được làm hòa với mọi người. Thị Nở sẽ là cây cầu nối giữa hắn với cuộc đời. Chí Phèo bâng khuâng, háo hức nghĩ tới một tương lai tốt đẹp. Chính tình người của Thị Nở đã thức tỉnh hồi sinh tình người trong Chí Phèo, thế mới biết sức cảm hóa của tình thương kỳ diệu biết nhường nào! Phát hiện và miêu tả quá trình thức tỉnh của Chí Phèo là một thành công nghệ thuật đặc sắc của Nam Cao. Tác giả đã khéo lựa chọn những chi tiết rất chân thực thể, miêu tả tâm lí nhân vật sắc sảo hiện lên ý nghĩa của sự hồi sinh là sự khẳng định sức sống của thiên lương, của lòng lương thiện.

Nhưng, bi kịch và đau đớn thay, cánh cửa cuộc đời vừa hé mở thì cũng ngay lập tức đóng sầm lại trước mắt Chí Phèo, rốt cuộc thì ngay chút tình thương yêu của Thị Nở không đủ mạnh để cứu hắn. Lời nói của bà cô Thị Nở như một gáo nước lạnh tạt thẳng vào mặt Chí Phèo làm tắt ngúm ngọn lửa lòng vừa được nhen lên trong Chí. “Ai lại đâm đầu đi lấy một thằng không cha không mẹ như cái thằng Chí Phèo” đã trở thành định kiến khắc nghiệt lấp mất lối về của Chí. Cũng như mọi người dân làng Vũ Đại khác, bà đã quen coi Chí là một thằng lưu manh, hơn thế nữa là một con quỷ dữ. Rồi cả Thị Nở, người đàn bà mà hắn đặt trọn lòng hi vọng đó nghe lời bà cô cũng ”dướn cái môi vĩ đại mà ném vào hắn bao lời chửi mắng”. Như thế, Chí Phèo thật sự rơi vào một bi kịch tinh thần đau đớn. Đó chính là bi kịch của một con người chết trên ngưỡng cửa trở về với cuộc sống lương thiện. Chút hạnh phúc nhỏ nhoi, mong ước được trở lại cuộc sống lương thiện cuối cùng vẫn không đến được với Chí Phèo. Và thật là khắc nghiệt, khi bản tính người nơi Chí Phèo trỗi dậy, cũng là lúc Chí Phèo hiểu rằng mình không còn trở về với lương thiện được nữa. Định kiến xã hội thông qua bà cô thị Nở không cho hắn đặt chân lên nhịp cầu hy vọng. Nói xa hơn, cái xã hội thực dân nửa phong kiến đó đã cướp đi của Chí quyền làm người và vĩnh viễn không trả lại. Nó đã tiêu hủy và đã bẻ gãy chiếc cầu nối Chí với cuộc đời.

Chí Phèo một lần nữa bị hắt hủi, ruồng bỏ phũ phàng. Chí Phèo lại uống rượu trong nỗi tuyệt vọng, đau đớn tột cùng ”ôm mặt khóc rưng rức”. Chí Phèo uống thật say, nhưng lần này không như mọi lần, càng say thì Chí lại càng tỉnh, càng tỉnh càng nhận ra bi kịch của cuộc đời mình. Phẫn uất, tuyệt vọng Chí xách dao đi định đến nhà Thị Nở. Trong ý định, Chí định đến nhà đâm chết con “khọm già”, con “đĩ Nở” nhưng sự thức tỉnh ý thức về thân phận và bi kịch đã đẩy chệch hướng đi của Chí dẫn Chí đến thẳng nhà Bá Kiến. Hơn ai hết lúc này Chí thấm thía tội ác của kẻ đã cướp đi quyền làm người của mình rằng: kẻ đã làm cho mình phải mang lốt quỷ, kẻ đã làm mình ra nỗng nỗi khốn cùng này chính là Bá Kiến. Anh càng thấm thía tội ác kẻ đã cướp đi quyền làm người, cướp đi cả bộ mặt và linh hồn của mình. Chí Phèo đến nhà Bá Kiến với tư cách là một nô lệ thức tỉnh, đòi quyền làm người. Thống thiết thay là tiếng kêu của Chí Phèo cuối tác phẩm: ”Tao muốn làm người lương thiện!… Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào cho mất được những mảnh vết chai trên mặt này?… Tao không thể làm người lương thiện nữa! Biết không! Chỉ có một cách… biết không!” Đó là những câu hỏi vút lên đầy cay đắng và không lời giải đáp. Câu hỏi chất chứa nỗi đau đớn đầy phẫn uất của một con người thấm thía được nỗi đau khôn cùng của bi kịch cá nhân. Câu hỏi đánh thẳng vào bộ mặt của xã hội bất lương. Câu hỏi như cứa vào tâm can người đọc về một thân phận con người đầy đắng cay trong xã hội cũ. Căm thù cao độ và không còn lối thoát. Chí Phèo đã giết bá Kiến rồi tự sát, lấy sự hủy diệt đời mình để giải quyết sự bế tắc của số phận. Chí đã chết khi cánh cửa cuộc đời đã đóng chặt trước mặt anh không cho anh trở lại. Đó là sự thức tỉnh về quyền sống, không chấp nhận được cuộc sống của một con quỷ dữ nữa, anh muốn hoàn lương mà xã hội đâu cho, bởi cái khát khao mãnh liệt được làm người đã bị dập tắt. Lương thiện có ngay trong mỗi con người là di sản tinh thần của mỗi người. Tại sao phải đi đòi lương thiện? À, thì ra Chí đã bị cái xã hội vô nhân tính ấy cướp mất. Khốn nạn thay cho Chí, ngay cả cái quyền được làm một con người cũng bị xã hội người ăn thịt người ấy bóp nát. Cái chết bi thảm của Chí Phèo là lời tố cáo mãnh liệt cái xã hội vô nhân đạo, xã hội thực dân nửa phong kiến. Cái chết ấy là cái chết của con người trong bi kịch đau đớn trước ngưỡng cửa về cuộc sống làm người, là tiếng kêu cứu về quyền làm người, cũng là tiếng gọi của nhà văn: Hãy cứu lấy con người! Hãy yêu thương con người!

Với nhân vật Chí phèo, Nam Cao đã đặt ra bi kịch của người nông dân trước cách mạng: đó là bi kịch con người sinh ra là người mà không được làm người. Điều này thể hiện sự cảm thông sâu sắc của Nam Cao với khát vọng lương thiện trong con người và sự bế tắc của những khát vọng trong hiện thực xã hội ấy. Tác phẩm mang ý nghĩa triết lí sâu sắc được thể hiện dưới hình thức nghệ thuật vô cùng độc đáo. Tác giả đã khéo lựa chọn những chi tiết rất chân thực, miêu tả tâm lí nhân vật, xây dựng nhân vật điển hình trong hoàn cảnh điển hình cộng với cốt truyện và các tình tiết hấp dẫn, biến hóa bất ngờ.

Tác phẩm Chí Phèo thông qua quá trình thức tỉnh hồi sinh và bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của nhân vật chính, nhà văn đã mang đến những giá trị nhân văn cao đẹp. Tác phẩm đã lên án, tố cáo tội ác của chế độ thực dân nửa phong kiến đã đàn áp và bóc lột nhân dân lao động. Qua đó nhà văn đồng cảm với những nỗi khổ đau, bị đày đọa và sự bế tắc của những khát vọng của người nông dân. Đồng thời nhà văn cũng kịp thời phát hiện và trân trọng trước vẻ đẹp tâm hồn của nhân vật và khao khát thay đổi thực tại để mang đến một cuộc sống tốt đẹp hơn.

3. Phân tích quá trình thức tỉnh của Chí Phèo mẫu 2

Truyện ngắn “Chí Phèo” là một kiệt tác của nền văn xuôi Việt Nam hiện đại của nhà văn hiện thực và nhân đạo Nam Cao. Qua tác phẩm, tác giả đã vẽ nên một bức tranh thê thảm, đầy bi thương của những kiếp sống lương thiện nhưng đói nghèo đã bị tha hóa cả về thể xác lẫn linh hồn. Tiêu biểu cho những kiếp người đó chính là nhân vật “Chí Phèo” và những bi kịch mà hắn phải chịu đựng, nếm trải trong chặng đường đời của mình.

Xuyên suốt toàn bộ tác phẩm, người đọc dõi theo từng bước chân của Chí từ một người dân lương thiện bình thường cho đến khi trở thành “con quỷ dữ” của làng Vũ Đại và cuối cùng là cái chết tuy bi thảm nhưng lại là cách giải thoát tốt nhất khỏi những bi kịch mà Chí đang phải chịu đựng. Người đọc không thể quên hình ảnh của Chí lúc mới ở tù ra với “cái đầu trọc lốc, răng cạo trắng hớn, mặt đen lại”, “cái ngực phanh ra đầy những nét chạm trổ rồng phượng với một ông tướng cầm trùy trông gớm chết”. Để rồi từ đó, cuộc đời hắn chìm trong men rượu, trong cơn say hắn đã làm biết bao tội ác, hắn phá vỡ hạnh phúc của biết bao nhiêu gia đình, làm chảy máu và nước mắt của biết bao nhiêu người lương thiện.

Những tưởng cuộc đời hắn sẽ trượt dài trong tội lỗi nhưng rồi ở phần cuối của tác phẩm, Chí Phèo đã có ý thức vươn lên khao khát được làm người lương thiện, đỉnh điểm của khát khao đó là hành động xách dao đến nhà bà cô Thị Nở nhưng lại đi thẳng đến nhà Bá Kiến để đòi lương thiện. Khi nhận ra một sự thật đau khổ đến mức tuyệt vọng là hắn không thể trở lại làm người lương thiện được nữa thì hắn đã giết Bá Kiến – nguyên nhân chính tạo nên mọi bi kịch của cuộc đời Chí và tự kết liễu đời mình để giải thoát khỏi cuộc sống đau khổ hiện tại. Vậy động lực nào đã thúc đẩy Chí hoàn lương? Đó chính là tình thương của Thị Nở và bát cháo hành của Thị.

Bát cháo hành của Thị Nở tuy giản đơn, mộc mạc chỉ có một chút cháo trắng với hành nhưng có ý nghĩa vô cùng to lớn đối với sự hồi sinh thức tỉnh của Chí. Bát cháo được nấu lên bằng tình yêu thương chân thành, sự cảm thông, thấu hiểu của Thị Nở dành cho Chí, chính vì vậy mà nó có sức lay động mạnh mẽ bản chất lương thiện vốn đã bị vùi sâu trong tâm hồn Chí. Nếu như trước đây, hắn chỉ biết uống rượu, rạch mặt, ăn vạ, rồi gây nên biết bao nhiêu tội ác thì giờ đây sau khi ăn bát cháo hành của Thị Nở hắn thấy lòng thành trẻ con. Hắn muốn làm nũng với Thị như với mẹ. Chưa bao giờ ta thấy hắn hiền như lúc này…Khi nhận được bát cháo hành từ tay Thị, Chí rất ngạc nhiên, hết ngạc nhiên thì hắn thấy mắt mình ươn ướt. Vậy là Chí đã khóc, một con người đã lấy đi biết bao nhiêu nước mắt của người khác vậy mà giờ đây chính hắn lại khóc. Hắn đã khóc, khóc vì đây là lần thứ nhất hắn được người ta cho, lại được cho bởi tay một người đàn bà. Trước đây, chỉ toàn là đi cướp giật của người khác, hắn thấy “xưa nay có thấy tự nhiên ai cho ai cái gì”. Hắn nhìn bát cháo bốc khói mà bâng khuâng, vừa vui vừa buồn và một cái gì nữa giống như là ăn năn, hối lỗi…Và đây cũng là lần đầu tiên Chí biết đến cái duyên của một người, đó là khi Thị Nở múc cháo “nhìn trộm hắn rồi lại cười toe toét. Trông Thị thế mà có duyên”. Nhìn Thị hắn nghĩ lại quá khứ khi mà hắn phải chăm sóc cho bà ba, phải làm những việc xấu xa hắn thấy nhục hơn là thích. Bát cháo hành của Thị Nở có sức mạnh thật kì diệu, nó đã làm cho một người như Chí phải suy nghĩ: “Hắn có thể tìm bạn được, sao lại chỉ gây thù?”.

Đồng thời, bát cháo ấy đã lấy lại sức khỏe cho hắn bởi vì hắn càng ăn mồ hôi lại càng ra nhiều. Và tất nhiên, điều này rất tốt đối với một người bị cảm gió như hắn. Tuy chỉ là bát cháo hành bình thường thôi nhưng nó đã giúp Chí khỏi bệnh, hắn thấy bát cháo mới thơm ngon làm sao, những người suốt đời không ăn cháo hành sẽ không biết rằng cháo hành ăn rất ngon… nhưng tại sao mãi đến tận bây giờ hắn mới nếm vị mùi cháo, tự hỏi để rồi tự mình trả lời. Đó chính là bởi vì đời hắn chưa bao giờ được săn sóc bởi tay một người đàn bà. Sự gặp gỡ với Thị Nở như là một điều kì diệu đối với Chí, hình ảnh của Thị giống như một vị cứu tinh trong cuộc đời u ám, say triền miên với những chuỗi dài bi kịch của Chí Phèo. Điều đặc biệt hơn, đây là tình cảm đáng trân trọng giữa những con người có cảnh ngộ khốn cùng.

4. Phân tích quá trình thức tỉnh của Chí Phèo ngắn gọn

Sinh thời, khi cầm bút, Nam Cao hằng tâm niệm “Sáng tạo là yêu cầu sống còn của văn chương, nghệ thuật”. Vì thế, hướng ngòi bút đến đề tài quen thuộc đó là cuộc sống khốn khổ của người nông dân trước cách mạng tháng Tám nhưng Nam Cao chọn cho mình một lối đi riêng. Khác với nhân vật trong truyện ngắn của Thạch Lam là được đặt vào trong một khoảnh khắc nhất định, nhân vật trong truyện ngắn của Nam Cao thường là những nhân vật có tính cách điển hình và được đặt trong hoàn cảnh điển hình. Đặc biệt, nhắc đến Nam Cao người ta không thể không nhắc đến Chí Phèo – nhân vật bước vào trang văn, ngật ngưỡng với dáng diệu của một kẻ say. Những diễn biến tâm lí của Chí Phèo khi đón nhận bát cháo hành của Thị Nở đã được Nam Cao diễn tả một cách chân thực, tài tình đến cảm động.

Chí Phèo đang vẩn vơ nghĩ về đời mình thì thị mang đến một nồi cháo hành. Sự quan tâm mộc mạc, giản dị chân tình ấy đã làm tâm hồn Chí đổi thay đến bất ngờ, mạnh mẽ. Lòng Chí trào dâng bao cảm xúc: bâng khuâng, ngỡ ngàng, ngạc nhiên, vui mừng, xúc động rồi lại nuối tiếc, buồn tẻ, xót xa, lại có cái gì như là ăn năn hối hận nữa. Chí ngỡ ngàng ngạc nhiên, cảm động đến ứa nước mắt. Vì đây là lần đầu tiên hắn không phải dọa nạt, đâm chém mà vẫn có cái ăn. Lần đầu tiên, hắn được một người đàn bà chăm sóc ân tình. Nhưng Chí không khỏi ngậm ngùi, cay đắng, buồn tủi, xót xa vì mãi đến tận bây giờ hắn mới được nếm mùi cháo. Cái hạnh phúc giản dị, đơn sơ khiến người ta thấy tội nghiệp sao lại đến với Chí muộn màng đến như vậy. Chí còn hối hận, ăn năn. Hành động của Thị Nở đã làm Chí suy nghĩ nhiều và Chí bỗng ngộ ra một điều rằng: Chí có thể làm bạn được sao lại gây kẻ thù. Dù rất hiếm hoi nhưng trên cõi đời vẫn còn có những vòng tay yêu thương, vẫn còn những tấm lòng nhân ái, bao dung. Trong đoạn văn diễn tả sự hồi sinh của Chí Phèo khi đón nhận bát cháo hành của Thị Nở, chi tiết Chí Phèo khóc có lẽ là chi tiết ấn tượng nhất. Có thể nói, Nam Cao luôn tin vào nước mắt của con người bởi một khi họ khóc có nghĩa là trong người họ vẫn cón chút lương thiện, nó chưa bị hủy hoại hoàn toàn mà vẫn sống âm thầm lặng lẽ. Vậy là chính tình người mộc mạc, giản dị của Thị Nở đã làm hồi sinh tình người trong Chí. Cái lốt quỷ dữ được lột bỏ, bản chất lương thiện đã hồi sinh trở lại.

Khi tính người trở về, lòng Chí nảy sinh tình cảm với Thị Nở. Trong khi ăn cháo, Thị Nở nhìn chộm Chí rồi lại toe toét cười. Trông Thị thế mà có duyên, tình yêu làm cho có duyên. Và chính tình yêu và chỉ có tình yêu mới làm cho cháo hành có hương vị thơm ngon, ngọt ngào chưa từng có. “Hắn húp một húp và nhận ra rằng những người suốt đời không ăn cháo hành không biết rằng cháo rất ngon. Cháo được nấu bởi tay của Thị Nở mà vẫn thấy ngon. Chí có tình yêu và chính tình yêu mới làm nên điều đó”. Yêu thương, trân trọng Thị Nở bao nhiêu, Chí càng căm ghét con quỷ cái nhà Bá Kiến bấy nhiêu. Cái con quỷ lẳng lơ, đĩ thõa chỉ lợi dụng Chí chứ chưa bao giờ yêu Chí. Chí cảm thấy nhục chứ không thấy yêu đương gì.

Hương vị ngọt ngào của bát cháo hành, tình yêu thương ngày càng thấm sâu vào tâm hồn Chí khiến chí như được lột xác, tái sinh. Chí thay đổi hoàn toàn cả về bộ dạng lẫn tâm tính. Nói chính xác hơn là Chí trở lại với diện mạo và tính cách của một người lương thiện. Chí còn muốn trở lại với cái xã hội bằng phẳng, thân thiện của những người lương thiện. Chí đặt tất cả niềm tin hi vọng vào Thị Nở. Hơn thế nữa, Chí đã có hành động vô cùng táo bạo và lãng mạn: Chí tỏ tình và cầu hôn Thị Nở. Dĩ nhiên cách tỏ tình của Chí Phèo rất mộc mạc và chất phác. Được Thị Nở ưng thuận, Chí vô cùng sung sướng hạnh phúc. Từ đây, Chí sẽ có một tổ ấm gia đình, từ đây, Chí trở lại được làm người lương thiện. Đó là khát khao lớn nhất của Chí.

Như vậy, không chỉ dừng lại ở việc tả “cái bề ngoài của xã hội”, của cuộc sống con người, Nam Cao đã đi sâu vào nội tâm nhân vật. Với những trang văn sống động mà chân thực, Nam Cao đã đưa chủ nghĩa hiện thực Việt Nam lên đến trình độ mới, hội nhập với quốc tế: từ chủ nghĩa tả chân lên đến chủ nghĩa hiện thực tâm lí. Không chỉ bộc lộ cảm quan hiện thực sâu sắc, đoạn văn còn thấm đượm tình cảm sâu sắc, cao đẹp, tiến bộ của Nam Cao. Có thể nói, đoạn văn diễn tả nội tâm của nhân vật Chí Phèo khi đón nhận bát cháo hành của Thị Nở là đoạn văn hay và để lại nhiều ấn tượng trong lòng người đọc nhất. Ở đó, ta có thể thấy rằng dù con người có bị tha hóa và bị đẩy xuống vũng bùn đen đến đâu thì thẳm sâu trong tâm hồn họ, vẫn có một mầm non lương thiện đang sống âm thầm, lặng lẽ. Nuôi dưỡng mầm cây non đó, Nam Cao đã dìu dắt Chí trở về với cõi thiện. Vậy là bằng ngòi bút chứa chan tình yêu thương con người, cũng như Thạch Lam, Nam Cao đã hoàn thành sứ mệnh của một nhà văn chân chính.

5. Phân tích quá trình thức tỉnh của Chí Phèo ngắn gọn mẫu 2

Số phận khổn khổ của người nông dân là đề tài quen thuộc của văn học hiện thực (1930-1945). Là một cây bút sáng tạo là yêu cầu sống còn của văn chương, Nam Cao có những tìm tòi, đổi mới đáng trân trọng. Không dừng lại ở nỗi khổ sưu cao thuế nặng như các tác phẩm cùng thời “Tắt đèn”, “Bước đường cùng”, Nam Cao đi sâu vào hiện tượng người nông dân bị ta hóa, bị cự tuyệt quyền làm người. Đồng thời, Nam Cao phát hiện và khẳng định bản chất lương thiện của người nông dân bị tha hóa. Những sáng tạo của Nam Cao được kết tinh từ nhân vật Chí Phèo. Đặc biệt là trong những trang văn diễn tả tâm trạng Chí Phèo từ sau khi gặp Thị Nở.

Có thể nói, dấu mốc quan trọng nhất tạo nên bước ngoặt quyết định trong cuộc đời Chí Phèo đó là cuộc gặp gỡ với Thị Nở. Trước khi gặp Thị Nở, từ cố nông luong thiện, Chí bị đẩy xuống và nhấn chìm trong vũng bùn tha hóa. Sau khi gặp Thị, Chí đã vực dậy rũ bùn tha hóa, thức tỉnh hoàn lươn. Vậy Thị Nở là ai? Là người như thế nào mà lại có tác động lớn lao đến cuộc đời Chí Phèo như vậy? Theo ngòi bút của Nam Cao, Thị Nở là người xấu ma chê quỷ hờn, ngẩn ngơ như người đần trong truyện cổ tích. Lại sinh ra trong gia đình nghèo truyền kiếp, có mả hủi. thị chẳng khác gì con vật lạ. Nhưng Thị lại là người duy nhất trong làng Vũ Đại vô tình, vô cảm ấy đã tự nguyện kết thân yêu thương Chí chân thành. Dĩ nhiên, không phải ngay từ khi gặp Thị, tâm hồn Chí đã thức tỉnh, cái lốt quỷ dữ được lột bỏ. Là một nhà văn am tường sâu sắc tâm lí nhân vật, Nam Cao đã khám phá, miêu tả, phân tích diễn biến nội tâm của Chí Phèo từ sau khi gặp Thị Nở một các chân thực, sống động và đầy xúc cảm.

Ban đầu, cuộc chung chạm với Thị Nở chỉ đánh thức bản năng gã đàn ông cho Chí Phèo. Nhưng sau đó, sự chăm sóc giản dị đầy ân tình và lòng yêu thương mộc mạc mà chân thành của người đàn bà khốn khổ ấy đã làm bản chất lương thiện trong con người Chí thức dậy. Tâm hồn Chí Phèo dần thức tỉnh rồi hối sinh mãnh liệt. Nhưng ngay sau đó, Chí Phèo lại lâm vào bi kịch đau đớn nhất của cuộc đời mình, là bi kịch từ chối, cự tuyệt quyền làm người. Sau đêm ái ân với Thị Nở, Chí Phèo tỉnh dậy muộn, hết say và hoàn toàn tỉnh táo. Sau bao nhiêu năm sống trong u mê dằng dặc, lần đầu tiên những cảnh vật, âm thanh của cuộc sống bỗng dội vào tâm hồn Chí tạo nên những vang động sâu xa. Chí thấy nắng rực rỡ, tiếng chim hót vui vẻ quá, tiếng cười nói của người đi chợ, tiếng anh thuyền chèo đuổi cá. Lòng chí bâng khuẩng, mơ hồ buồn.
Tỉnh rượi rồi Chí tỉnh ngộ, từ chỗ tê liệt ý thức, Chí bỗng ngộ ra bao điều về đời mình. Chí đã có cái nhìn chính xác về cuộc đời dằng dặc của mình từ quá khứ, hiện tại, tương lai. Nghĩ về những ngày xa xôi, Chí nao nao buồn. Hình như có một thời, Chí ao ước có một gia đình nho nhỏ , chồng quốc mướn, cày thuê, vợ dệt vải… Nhưng ước mơ nhỏ bé giản dị ấy đã tuột khỏi tay Chí từ lúc nào, về phương trời xa xăm nào. Ngẫm về hiện tại, Chí thấy buồn thay cho đời. Chí đã già, đã tới cái dốc bên kia của cuộc đời mà vẫn cô độc, trắng tay. Chí không nhà, không cửa, không vợ, không con. Đời chí đâu chỉ là con số 0 tròn trĩnh mà còn là con số âm khủng khiếp, đời Chí chồng chất biết bao nhiêu là tội ác. Tương lai phía trước còn đáng buồn hơn. Chỉ có tuổi già đói rét, ốm đau và cô độc. Và chí sợ nhất là sự cô độc, mà sợ cô độc nghĩa là Chí thèm khát tình người. Thèm khát tình người đồng nghĩa với việc là tính người đang trở lại trong Chí.

Có thể nói ‘‘Đoạn văn viết về sự thức tỉnh của linh hồn Chí sau đêm gặp gỡ với Thị Nở là một đoạn tuyệt bút đầy chất thơ và tập trung thể hiện tư tưởng nhân đạo sâu sắc, bất ngờ của ngòi bút Nam Cao”. Không chỉ dừng lại ở đó, những diễn biến tâm trạng vô cùng phức tạp tinh vi của Chí Phèo đã được nhà văn diễn tả chân thực, chính xác, tài tình đến cảm động. Từ hình tượng nhân vật Chí Phèo, giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm được bộc lộ sâu sắc mới mẻ và lớn lao.

6. Phân tích quá trình hồi sinh của Chí Phèo

Nam Cao là cây bút vàng trong làng truyện ngắn của nền văn học hiện đại Việt Nam. Một trong hai đề tài quen thuộc và nổi tiếng của ông đó là hình ảnh người nông dân bị bần cùng hoá, lưu manh hoá. Chí Phèo của Nam Cao là một kiệt tác trong văn xuôi hiện đại được viết vào năm 1941. Truyện là một chuỗi những bi kịch của cuộc đời Chí Phèo, như nổi trong đó là quá trình thức tỉnh hồi sinh và bi kịch cự tuyệt của Chí Phèo trong tác phẩm là một trong những đoạn thể hiện sâu sắc ý nghĩa nhân văn và giá trị nhân đạo của tác phẩm đáng được nhắc đến.

Chí Phèo là một đứa trẻ mồ côi không cha không mẹ được một ông đổ ống lươn nhặt ở lò gạch về rồi được dân làng nuôi lớn. Lớn lên, Chí vốn là người nông dân hiền lành, lương thiện nhưng đã bị xã hội phong kiến bóc lột, đè nén, áp bức trở thành “con quỷ dữ làng Vũ Đại”.

Chính Bá Kiến vì những ghen tuông mù quáng đã đẩy một anh Chí vô tội vào tù, biến Chí từ một người nông dân hiền lành trở thành một thằng lưu manh, thành tay sai đắc lực cho hắn. Lúc ấy, anh bị xã hội ruồng bỏ, bị tước đi mất quyền làm người, bị mất đi cả nhân hình lẫn nhân tính. Và cứ thế Chí Phèo triền miên trong những cơn say. Chưa bao giờ hắn tỉnh, và có lẽ hắn chưa bao giờ tỉnh táo, để nhớ có hắn ở đời.

Cứ tưởng Chí Phèo mãi mãi sống triền miên trong những cơn say, rồi sẽ kết thúc bằng cách vùi xác ở một bờ bụi nào đó. Nhưng bằng trái tim nhân đạo của một nhà văn lớn, Nam Cao đã để Chí Phèo có cơ hội để làm lại cuộc đời, để trở lại là một anh Chí lương thiện một lần nữa. Ông đã đem tình thương chạm đến tận đáy trái tim cô độc khát khao yêu thương của con người là người ta vẫn gọi là “con quỷ dữ làng Vũ Đại” đó.

Trong một đêm say, hắn tình cờ gặp Thị Nở – người đàn bà dở hơi xấu xí và ế chồng. Đêm hôm ấy, họ ăn nằm với nhau như vợ chồng. Sự quan tâm chăm sóc mà Thị Nở dành cho hắn sau cái hôm ấy dường như đã đánh thức lương tri, đánh thức bản chất lương thiện vốn có đã ngủ quên từ lâu trong con người Chí. Chính là nhờ cuộc gặp gỡ ấy mà trong Chí đã khao khát được hoàn lương để có thể được sống như một con người.

Quá trình hồi sinh của con người trong Chí Phèo sau đêm gặp Thị Nở cho ta thấy khả năng phân tích tâm lý nhân vật xuất sắc của Nam Cao. Khi tỉnh rượu, Chí thấy lòng mình chợt bâng khuâng ”mơ hồ buồn”. Những lần trước, mỗi khi tỉnh rượu, hắn lại uống, vì thế say kế tiếp say. Còn lần này, Chí Phèo tỉnh rượu với trạng thái khác hẳn “người thì bủn rủn, chân tay không buồn nhấc, hay là đói rượu, hắn hơi rùng mình.

Ruột gan lại nôn nao lên một tí. Hắn sợ rượu như những người ốm sợ cơm”. Sau bao năm, lần đầu tiên trong cuộc đời Chí tỉnh dậy. Tỉnh rượu hay cũng chính là con người đã ngủ quên trong Chí bao lâu nay đã tỉnh lại. Hắn chợt nhận ra nơi căn lều ẩm thấp là ánh nắng ngoài kia rực rỡ biết bao, hắn nghe thấy mọi âm thanh của cuộc sống: tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá, tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá trên sông, tiếng lao xao của người đi chợ bán vải về…

Những âm thanh quen thuộc ấy hôm nào mà chả có, nhưng hôm nay chỉ hôm nay Chí mới cảm nhận và nghe thấy. Âm thanh ấy chính như tiếng gọi thiết tha, thôi thúc của cuộc sống vang lên trong tâm hồn vừa được khơi dậy của Chí… Chí nhìn lại cuộc đời mình cả trong quá khứ, hiện tại và tương lai. Cái ước mơ bình dị ngày nào ”có một gia đình nho nhỏ, chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải…” bỗng dưng trở lại với Chí.

Chí thấy hiện tại của mình thật đáng buồn bởi “hắn đã tới cái dốc bên kia của cuộc đời”. Tương lai đối với hắn, còn đáng buồn hơn, hắn còn lo sợ bởi hắn đã trông thấy trước “tuổi già, đói rét và ốm đau” và nhất là “cô độc”, hắn sợ cô độc. Cứ như vậy, Chí dần lí trí và có nhận thức về chính mình, về cuộc đời mình. Chí đang thức tỉnh một cách toàn diện cả về nhận thức và ý thức và bắt đầu hồi sinh để trở về với kiếp người.

Khi Chí đang chìm trong những miên man bất tận khi nghĩ về cuộc đời mình thì ngay lúc ấy thì Thị Nở bưng đến cho Chí Phèo bát cháo hành đang nghi ngút khói. Và nếu như Thị Nở không qua, chắc là hắn đã khóc được mất. Việc làm này của thị khiến hắn từ ”hết sức ngạc nhiên” đến xúc động ”thấy mắt mình như ươn ướt” bởi vì một lẽ hết sức đơn giản “lần đầu tiên hắn được người ta cho…”, “đời hắn chưa bao giờ được săn sóc bởi bàn tay đàn bà”. Hắn còn cảm nhận về hương vị cháo hành, nó thơm và ngon lắm.

Còn Thị Nở, Thị thấy Chí rất hiền. Bát cháo hành của thị Nở làm hắn suy nghĩ nhiều. Phần người dường như đã ngủ quên trong hắn dần hồi sinh tỉnh dậy. Hành động chăm sóc đầy tình cảm yêu thương ấy làm tâm trạng Chí đi từ xúc động đến ăn năn, hồi tỉnh. Tình yêu của Thị Nở đã mở đường cho Chí Phèo: “Trời ơi! Hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao.. Thị có thể sống yên ổn với hắn thì sao người khác lại không thể được”.

Cùng với mong ước được làm người lương thiện, Chí khao khát hạnh phúc và một mái ấm gia đình. Và hắn nói “Giá cứ thế này mãi thì thích nhỉ?”. Lúc này nội tâm của Chí đã bừng tỉnh, lương tri của hắn đã trỗi dậy. Hắn thật sự muốn ”thế này”, muốn được ăn cháo hành, được sống bên cạnh thị Nở, được thị quan tâm, chăm sóc, yêu thương và được làm nũng với thị.. “Hay là mình sang đây ở với tớ một nhà cho vui” một mái ấm gia đình vui vẻ, hạnh phúc, câu nói này giống như một lời cầu hôn của Chí với Thị Nở.

Chí muốn sống như một con người đúng nghĩa, khao khát đc trở lại với cuộc sống bình thường, được làm hòa với mọi người. Thị Nở chính là người mở ra cánh cửa hoàn lương cho cuộc đời của hắn. Chính tình người của Thị Nở đã thức tỉnh hồi sinh tình phần trong Chí Phèo, thế mới biết sức cảm hóa của tình thương kỳ diệu tới mức nào. Phát hiện và miêu tả quá trình thức tỉnh của Chí Phèo là một thành công trong nghệ thuật sắc của Nam Cao. Tác giả đã khéo lựa chọn những chi tiết rất chân thực thể, miêu tả tâm lí nhân vật sắc sảo hiện nên ý nghĩa của sự hồi sinh là sự khẳng định sức sống của thiện lương, của lòng lương thiện.

Nhưng, phũ phàng thay thay, cánh cửa cuộc đời vừa hé mở thì cũng ngay lập tức đóng sầm lại trước mắt Chí Phèo. Những định kiến của bà cô Thị Nở hay cũng như thành kiến mà xã hội này dành cho hắn như một gáo nước lạnh tạt thẳng vào mặt Chí Phèo dập tắt ngọn lửa hoàn lương vừa nhen nhóm lên trong Chí. Rồi cả Thị Nở, người đàn bà mà hắn đặt trọn lòng hi vọng đó nghe lời bà cô cũng” rướn cái môi vĩ đại mà ném vào hắn bao lời chửi mắng”. Một bi kịch trong một chuỗi nhưng bi kịch của cuộc đời anh Chí.

Đó chính là bi kịch của một con người chết trên ngưỡng cửa trở về với cuộc sống lương thiện, bị cự tuyệt quyền làm người, bị gạt bỏ ra khỏi xã hội loài người. Chí Phèo hiểu rằng mình không còn trở về với lương thiện được nữa. Định kiến xã hội thông qua bà cô thị Nở không cho hắn hoàn lương.. Chí Phèo lại uống rượu trong nỗi tuyệt vọng, đau đớn tột cùng ”ôm mặt khóc rưng rức”.

Chí Phèo uống thật say, nhưng lần này không như mọi lần, càng say thì hắn lại càng tỉnh, càng tỉnh càng nhận ra bi kịch của cuộc đời mình. Phẫn uất, tuyệt vọng Chí xách dao đi định đến nhà Thị Nở. Trong ý định, Chí định đến nhà đâm chết con “khọm già”, con “đĩ Nở” nhưng sự thức tỉnh ý thức về thân phận trong vô thức Chí đến thẳng nhà Bá Kiến. Hắn nhận ra ai mới là thủ phạm, ai mới là kẻ đẩy mình vào bước đường này. Không ai hết, đó chính là Bá Kiến.

Chí Phèo đến nhà Bá Kiến với tư cách là một nô lệ thức tỉnh, đòi quyền làm người, đòi lương thiện ”Tao muốn làm người lương thiện!… Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào cho mất được những mảnh vết chai trên mặt này?… Tao không thể làm người lương thiện nữa! Biết không! Chỉ có một cách… biết không!” Đó là những câu hỏi không lời giải đáp đầy cay đắng. Câu hỏi chất chứa nỗi đau đớn đầy phẫn uất của một con người thấm thía được nỗi đau khôn cùng của bi kịch cá nhân.

Câu hỏi đánh thẳng vào bộ mặt của xã hội bất lương. Câu hỏi như cứa vào tâm can người đọc về một thân phận con người đầy đắng cay trong xã hội cũ. Chí Phèo đã giết bá Kiến rồi tự sát, lấy sự hủy diệt đời mình để giải quyết sự bế tắc của số phận. Đó là sự thức tỉnh về quyền sống, không chấp nhận một cuộc sống của 1 con quỷ dữ nữa, anh muốn hoàn lương mà nhưng xã hội này không cho phép. Cái chết bi thảm của Chí Phèo là lời tố cáo mãnh liệt cái xã hội vô nhân đạo, xã hội thực dân nửa phong kiến. Cái chết ấy là cái chết của con người trong bi kịch đau đớn trước ngưỡng cửa làm lại cuộc đời.

Với hình tượng nhân vật Chí phèo, Nam Cao đã đặt ra bi kịch của người nông dân trước cách mạng, đó là bi kịch bị bần cùng hoá và lưu manh hoá cả người nông dân. Điều này thể hiện sự cảm thông sâu sắc của Nam Cao với khát vọng lương thiện trong con người và sự bế tắc của những khát vọng trong hiện thực xã hội ấy. Tác phẩm mang nhiều ý nghĩa triết lí sâu sắc được thể hiện dưới hình thức nghệ thuật vô cùng độc đáo.

Tác phẩm Chí Phèo thông qua quá trình thức tỉnh hồi sinh và bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của nhân vật chính, nhà văn đã mang đến những giá trị nhân văn cao đẹp. Bên cạnh đó, tác phẩm cũng đã lên án, tố cáo tội ác của chế độ thực dân nửa phong kiến đã đàn áp và bóc lột nhân dân lao động. Qua đó nhà văn đồng cảm với những nỗi khổ đau, bị đày đọa và sự bế tắc của những khát vọng của người nông dân. Đồng thời nhà văn cũng kịp thời phát hiện và trân trọng trước vẻ đẹp tâm hồn của nhân vật và khao khát thay đổi thực tại để mang đến một cuộc sống tốt đẹp hơn.

7. Phân tích quá trình hồi sinh của Chí Phèo chi tiết

Có hạt cát vô tình rơi vào làm xót lòng trai. Tháng năm… năm tháng hạt cát không mang tên, không số phận. Hạt cát lại trở thành hạt ngọc quý giá cho đời. Có những tác phẩm ví như đứa con mang nặng đẻ đau qua chín tháng mười ngày của người mẹ: những nhà văn đầy tâm huyết và trách nhiệm với nghề Nam Cao với thiên chức cao cả đó và thai nghén nên đứa con tinh thần Chí Phèo, bên cạnh những Lão Hạc, Đời thừa, Sống mòn.

Chí Phèo, tên nhân vật được Nam Cao đặt thành tên tác phẩm (sau hai lần đổi tên), xuất hiện xuyên suốt tác phẩm với một tấn bi kịch “bị cự tuyệt quyền làm người”. Nghĩa là từ lúc chào đời Chí đã mang lấy cái bi kịch tội nghiệp của số phận! Nhưng có lẽ những diễn biến trầm trọng và hành động của Chí từ lúc gặp Thị Nở đến khi tự kết liễu cuộc đời là khúc ca ai oán nhất, có thể gọi là bi kịch nhất trong những thứ gọi là bi kịch của Chí.

Và Nam Cao, sự hóa thân hài hòa trong cuộc sống của người nông dân nghèo thời kì 1930-1945 với tấm lòng nhân đạo sâu sắc đã tạo nên giá trị của tác phẩm thông qua ngòi bút đầy tài năng của ông.

“Tài sản” duy nhất của một đứa trẻ bị vứt trong cái lò gạch hoang được người ta cứu vớt trước khi sắp chết chỉ là cái váy đụp “rách như tổ đỉa”. Đó là hình dạng nguyên vẹn của Chí Phèo lúc mới ra đời. Rồi Chí lớn lên, trở thành anh canh điền, sau mấy lần “thay cha đổi mẹ” mà cũng không phải như thế, Chí có được làm con của ai bao giờ đâu? Anh canh điền chân đất, chăm làm lụng ấy vì sự ghen tuông của Bá Kiến đã bị chế độ nhà tù đế quốc “đào tạo” mất đi lương tính sau ngày trở lại quê hương.

Chí trở thành “con quỷ dữ của làng Vũ Đại”. Bao nhiêu máu và nước mắt đã đổ xuống vì hắn. Chính Bá Kiến và uy quyền giai cấp thống trị mà hắn là đại diện cùng sức mạnh của đồng tiền đã tha hóa con người của Chí.

Chí mất hẳn nhân hình và nhân tính, hắn chỉ còn có men rượu làm bạn. Ai cũng trách hắn, hắn là kẻ cô đơn, nhất là chính bản thân hắn trong mê hồn trận của mình, hắn đã không cảm nhận được hay đôi khi cảm nhận nhưng không thể thay đổi được mọi việc mọi diễn biến xung quanh vì lúc nào hắn cũng say, rồi la hét, rạch mặt ăn vạ để đòi nợ cho gia đình tên Bá Kiến.

Hắn vẫn đương say, vẫn là “con quỷ dữ” cho đến cái đêm trăng ấy bên bờ sông. Hắn bắt gặp Thị Nở. Ả nằm ngủ ngon lành, bộ dạng “hớ hênh” làm thức tỉnh một cái gì đó trong hắn. Đó không phải là tình yêu, mà chỉ là “bản năng” song cũng chẳng phải bản năng của con người bình thường! Rượu điều khiển hắn chứ hắn không tự chủ được bản thân từ khi nhận năm hào của Bá Kiến nữa rồi.

Sau đêm ấy, hắn bị ốm liệt giường. Mọi sự chắc cũng sẽ diễn ra bình thường, hắn cũng sẽ say, sẽ có một mình trong túp lều ọp ẹp của hắn. Nhưng Thị Nở với một chút tình thương trong tâm hồn người phụ nữ đã đến với hắn. Thị mang cho hắn một bát cháo hành. Ôi lạ thật, Chí đã từ ngạc nhiên rồi đến xúc động nghẹn ngào. Bát cháo là ân huệ từ trước đến nay hắn được nhận từ sự quan tâm, chăm sóc của một con người. Mắt hắn rưng rưng, đây là một sự thay đổi đầu tiên trong hắn, tự bao giờ có thấy hắn khóc bao giờ? “Ai chưa ăn cháo hành không biết là cháo rất ngon”. Phải chăng đời đã dành cho hắn chút ân tình? Và điều gì đã diễn ra ở con người ấy?

Hắn đã dần bỏ rượu, cứ nghe mùi rượu là hắn ớn, những phút yêu đương với Thị Nở chiếm hết thời gian của hắn. Hắn tưởng Thị Nở đã chấp nhận hắn thì mọi người ắt sẽ chấp nhận được hắn thôi.

Nhưng cánh cửa Thị Nở mở cho hắn về với cuộc đời vội khép lại. “Con mụ” dở hơi ấy vì “nhận ra mình còn một bà cô” nên đã “dừng yêu” về nhà hỏi cô. Bà cô là đại diện cho những hà khắc, những định kiến của xã hội cùng với tâm tính của một bà già còn “ở vậy” đã ngăn cấm cháu đến với Chí, một thằng suốt đời chỉ biết rạch mặt ăn vạ.

Chí Phèo nào biết mọi việc diễn ra theo chiều hướng xấu. Buổi sáng chờ Thị Nở đối với hắn thật là dài, và hắn thấy “Chao ôi! Buồn”. Mọi vật mà hằng ngày vì say mèm hắn quên để ý nên thứ gì cũng thấy mới mẻ. Hắn muốn uống rượu nhưng để có thời gian mà yêu, nên thôi. Diễn biến tâm trạng của hắn thật là khó diễn đạt. Có lẽ nào con người của ý chí, của lương tri đã sống lại trong hắn? Sự vật chung quanh bừng sáng, âm thanh mái chèo khuấy nước nghe là lạ. “Chao ôi! Buồn”, có gì đâu mà chẳng buồn đối với hắn. Hắn chợt nhớ… những ước mơ thời tuổi trẻ một mái gia đình nghèo thôi chồng cày thuê cuốc mướn, vợ dệt vải, có chút ít vốn thì nuôi mấy con lợn trong nhà. Anh canh điền của tuổi đôi mươi chợt hiện về trong Chí. Chí khao khát được trở lại với cuộc sống, trở lại với cộng đồng và trong ý nghĩ của Chí thì Thị Nở sẽ là chiếc cầu nối đưa hắn trở về với đồng loại.

Bao dự định tốt đẹp mà hắn với Thị Nở sẽ làm như mạch suy tưởng của anh Chí với khát vọng sống ngày xưa. Chí chờ Thị và thời gian như bỡn cợt hắn. Và rồi Thị đến, Thị đem đến cho hắn, nếu lần trước là bát hành nóng, thì hôm nay là gáo nước lạnh tạt vào mặt. Mọi sự bất ngờ quá. Hắn cứ tưởng Thị đùa nên lấy làm thú vị. Rồi hắn ngạc nhiên! Và hắn hiểu. Hiểu cái xô của Thị. Lần thứ hai Chí khóc. Không thể mô tả bản mặt của Chí lúc này, hắn rất đáng thương. Nam Cao cũng chỉ có thể nhìn nhận đấy là bản mặt của một con vật lạ khác mặt con quỷ trước đó.

Chí uống mọi lúc để có can đảm làm việc gì đó như đi đòi nợ, rạch mặt ăn vạ, hắn chỉ việc uống cho thật say. Quái, sao càng uống càng tỉnh, “những thằng điên và những thằng say không bao giờ làm những việc mà trước đó hắn định làm”. Chí Phèo định đến nhà để “giết chết con mụ khọm già”. Hắn nghĩ tại bà cô của Thị Nở. Hắn xách dao đi trong trạng thái không say cũng không tỉnh nhưng không phải đến nhà bà cô Thị Nở mà lối ấy đến nhà Bá Kiến.

Khi không còn gì, dường như lúc ấy người ta lại còn rất nhiều. Chí còn gì đâu, nhân hình đã mất, nhân cách cũng không còn, Thị Nở là điểm tựa là niềm ao ước duy nhất của Chí để đưa Chí trở về với cuộc sống của cộng đồng. Nhưng Thị Nở đã khép mất cánh cửa hi vọng của đời Chí. Chỉ còn mối thù ai đã xô Chí đến con đường này, tiến không được, lùi cũng không xong. Có lẽ mọi sự đã hết nhưng Chí phải làm cho xong một việc. Đòi lương thiện cho mình.

Lần thứ ba, Chí đến nhà Bá Kiến, kẻ mà ngày mới ra tù về làng Chí định sẽ đến đòi nợ. Lần này Chí không đến lấy mấy hào bố thí, không đòi đi tù mà đòi cái thiêng liêng, cao cả nhất của con người mà chính Bá Kiến đã trực tiếp tước mất của Chí.

“Tôi đến để đòi lương thiện”. Câu nói xuất phát từ tận đáy lòng con người đang đi đến mức đường cùng của bi kịch. Chí Phèo đã vung dao giết chết Bá Kiến và Chí tự kết liễu đời mình ngay ở ngưỡng cửa trở về. Câu hỏi nhức nhối đến đau thương sau cùng của Chí “Ai cho tao lương thiện” và những lần Chí hét “Thì đây… này” chính là câu trả lời của bản thân Chí.

Bằng cảm nhận, người đọc thấy cái lôgic tất yếu lời nói và hành động của Chí Phèo ở cuối tác phẩm là rất tự nhiên, rất phù hợp. Dĩ nhiên dù có những nghiệt ngã và bất ngờ – cái nghiệt ngã cái tự nhiên, cái lạ như quy luật cuộc sống! Thế nhưng, thử đọc lại và suy ngẫm, ta khó cắt nghĩa được thậm chí ta thấy đối ngược với ý niệm ban đầu: Tại sao Chí Phèo lại có thể nói như một nhà hiền triết? Tại sao con người bản chất nông dân ưa nôm na mách qué và đã có một quá trình bị rượu u mê lại có thể đường hoàng dõng dạc và nói mạch lạc, minh triết đến sâu thẳm cái ước mong vô vọng của mình? Thực ra, cái dõng dạc cái vênh mặt kiêu ngạo, cái lắc đầu khi đứng trước Bá Kiến lần này là “thừa kế” những lần say đến đòi tiền nhà Đội Tảo, những lần chủ động hung hăng đến gây tai họa cho dân Vũ Đại. Nhưng có lẽ cái hành động rất linh hoạt này, Chí đã “học” từ Bá Kiến bởi hàng ngày hắn lá mặt lá trái với con quỷ nham hiểm này. Còn lời nói? Cái từ “lương thiện” chẳng đã vang lên như điệp khúc khi Chí gần Thị Nở? Khi Chí khao khát, hắn thèm lương thiện (…) Họ sẽ nhận ra hắn vào (…) những người lương thiện. Mơ ước đôi lứa với Thị Nở, cái “lương thiện” trở thành một bào thai của hi vọng đang cựa quậy… Nhưng khi đối mặt với Bá Kiến cái tiếng ấy được “Cụ Bá” nhắc lại như nói với thằng say một điều mà hắn phải tỉnh.

Ô tưởng gì! Tôi chỉ cần anh lương thiện cho thiên hạ nhờ!

Khát khao cháy bỏng của Chí với cụ Bá lại chỉ là một việc vớ vẩn không đáng lưu tâm “Ồ tưởng gì” cái việc lấy lương thiện cũng dễ như cái việc uống rượu đòi nợ và ăn vạ. Dù hiểu đời đến mức lọc lõi Bá Kiến cũng không thể hiểu ước mơ của Chí nó quan hệ tới sinh tử. Thế giới quỷ có bao giờ hiểu thế giới – dù là đời thường nhất của người? Do đó lời “cụ Bá” muốn “tri kỉ” với thằng quỷ mà mình vắt nặn nên trở thành lời nhạo báng với anh Chí vừa rời lốt quỷ: Chí Phèo nói và day dứt nhiều tới lương thiện có lẽ là vậy.

Lời nói của Chí Phèo phản ánh một thực tế trần trụi đến thô bỉ: “Định kiến” người đời đã không thể cho Chí qua một cái con sào ngáng đường, mà điều này không khó lắm, bởi chỉ mình Thị Nở, Thị cũng có khả năng mở chốt nâng sào. Chí giận sôi sùng sục trong lời chất vấn mà kết án với Bá Kiến. Thực ra, Chí đang nói những ấm ức mà Thị Nở vừa “Trút vào mặt hắn tất cả lời bà cô”.

Vậy là ngôn ngữ, giọng điệu thái độ có lẽ rất lạ của Chí đã có những yếu tố hiện thực tiềm năng trong quá khứ. Nó bất ngờ và vẫn tự nhiên là vì thế. Nhưng có lẽ tài năng của Nam Cao ở đây là ông đã mô tả một cách tuyệt vời những “vùng biên” tâm trạng rất vi tế thậm chí mơ hồ của con người, đâu là lời và hành động của Chí Phèo say? Đâu là anh Chí tỉnh? Thật khó rạch ròi. Cách phân tích là nên đọc lại và thêm một lần nữa khâm phục Nam Cao. Vậy là Chí không còn con đường lựa chọn nào khác, xã hội đã không thừa nhận. Thị Nở cũng đã bỏ hắn, mà trở lại với cuộc sống lưu manh tha hóa, thì Chí không thể nhân tính hắn mất, nhưng phút cuối cùng nó lại trở lại với anh Chí.

Chí Phèo ngắc ngoải trên vũng máu, đây là hình ảnh mang sức tố cáo lớn. Nó tố cáo chế độ phong kiến, tố cáo nhà tù thực dân với sự nhơ bẩn của đồng tiền đã xô đẩy, tha hóa một con người. Giá trị nhân đạo của một tác phẩm qua ngòi bút của Nam Cao vừa đau đớn vừa như một nhát dao lạnh ông để lại cho thời đại cùng lên án một chế độ, về một cách cư xử khi nhìn người ta sung sướng thì ghen tuông vùi dập. Đó là hoàn cảnh với bao nhiêu sự cay độc, tàn ác đã chà đạp lên số phận con người. Chí Phèo và tuổi thơ đã là một bi kịch xót xa ngậm ngùi nhưng Chí Phèo với bi kịch giằng xé trong tâm hồn và những hành động đã bị ép vào con đường cùng thì càng khiến người đọc đau ran vùng cay đắng, nhức nhối một niềm thương cảm hơn. Chí chỉ mơ ước một cuộc đời bình dị, một người vợ cũng bình thường trong xã hội. Không phải ngẫu nhiên mà Nam Cao xây dựng Thị Nở xấu đến nỗi ma chê quỷ hờn, có lẽ ông đã dụng ý của kì công khắc họa một nhân vật xấu nhất trong văn học Việt Nam xuất phát từ thành tâm đem đến cho Chí một người phụ nữ thích hợp. Khác với mô-típ xây dựng nhân vật của những nhà văn đi trước hoặc cùng thời, nhân vật xấu người đẹp nết hay ngược lại, đó đã là một khía cạnh thể hiện sự nhân đạo của Nam Cao. Ông nhìn nhận sâu sắc bằng cả trái tim và tâm linh của người viết về cái phần hồn của mỗi người “Với con người phần hồn nặng hơn phần xác” (ý Nguyễn Minh Châu) Chí Phèo và Thị Nở, người thì mất cả nhân hình lẫn nhân tính. Người thì xấu xí lại ương dở “vô tư”. Nhưng chính Nam Cao đã phát hiện ra phần hồn được đánh thức của họ, xã hội đẩy đưa trong túm bọc thành kiến đã biến chất con người họ chứ như tự tâm hồn họ vẫn khát khao được sống được yêu như những người bình thường.

Hành động quyết liệt cuối cùng của Chí, tìm đến cái chết, có phải là hạn chế của Nam Cao cũng như nhân vật của chị Dậu của Ngô Tất Tố với cái “tiền đồ tối đen như mực”? Đây là điểm nhân đạo lớn của tác giả. Ông không muốn phải đứng về phía xã hội xưng hô với Chí bằng những tiếng “y” hay “hắn”. Ông không muốn Chí phải trở về với con đường cũ, về với sự cách biệt của xã hội mà muốn con quỷ làng Vũ Đại về với cái anh Chí ngày nào và nếu có chết cũng phải cắt đứt cái đuôi “phèo” rất nặng để thăng hoa thành người. Chí Phèo đã rất tội, ngay từ mở đầu “hắn vừa đi vừa chửi”, đây là sự thèm khát được giao tiếp đến tột độ của nhân vật.

Tác phẩm đóng lại nhưng thực ra trong suy nghĩ của người đọc thì vẫn còn mở. Chị Dậu của Ngô Tất Tố về đâu với cái tiền đồ tối đen như mực? Còn Chí Phèo, cái chết là gì? Phải chăng đỉnh cao của bản cáo trạng tố cáo chế độ phong kiến thực dân là máu của Chí, là nhân mạng? Cái chết như là biểu dương nhân cách, nhân tính. Nó khuyên dụ và cảnh cáo.

Nam Cao ơi! Sao rơi chi nhiều nước mắt? Hẳn tác giả đã khóc như bao lần Nguyên Hồng đã òa khóc cho Huệ Chi: “Nó chết rồi”. Cả tác phẩm Chí Phèo vùi trong cơn say, trong những diễn biến tâm trạng khác nhau còn đối với người đọc, lại là những phút giận và những giờ thương.

Không biết trong cái xã hội đen tối cũ, có bao nhiêu người bị đẩy vào bi kịch cả về tâm trạng lẫn hành động như Chí Phèo. Hỏi Nam Cao? Hỏi xã hội tấm lòng thương cảm của mỗi con người?

8. Đoạn văn ngắn về quá trình thức tỉnh của Chí phèo

“Chí Phèo” – Nam Cao là một trong những truyện ngắn với đề tài người nông dân trước CMT8 , chúng ta không thể không biết đến sự thức tỉnh của Chí Phèo. Chí Phèo trước đã là một con người chuyên rạch mặt ăn vạ, là tay sai cho Bá Kiến để đi đòi nợ. Chí Phéo cứ xoay quanh cuộc sống như vậy. Nhưng chính vào cái đêm định mệnh ấy Chí gặp Thị Nở, và sáng hôm sau tỉnh dậy Chí Phèo như đã thức tỉnh hẳn. Hình ảnh bát cháo hành của Thị Nở cũng làm người đọc không bao giờ quên, chỉ với một bát cháo nóng hổi, khói bốc nghi ngút đã làm Chí thức tỉnh. Chí Phèo nghĩ mình không thể sống một cuộc đời như vậy nữa. Trước khi còn trẻ Chí đã từng mơ ước có một ngôi nhà, có vợ và những đứa con. Và sự khao khát được hoàn lương của Chí Phèo đã trỗi dậy sau khi được thức tỉnh. Với sự trở lại của khả năng nhận thức ngoại giới và nhận thức chính mình (lý trí), cùng những tình cảm, cảm xúc rất con người, Chí đang thức tỉnh một cách tòan diện cả về nhận thức và ý thức và bắt đầu hồi sinh để trở về với kiếp người.

9. Cảm nhận về quá trình thức tỉnh của Chí phèo

Nam Cao – một trong những cây bút xuất sác nhất của dòng văn học hiện thực,phê phán trước Cm tháng tám .ông nổi tiếng với các sáng tác về đề tài người nông dân và người trí thức tiểu tư sản. Tiêu biểu cho đề tài về người nông dân là tác phẩm “Chí Phèo ” với nhân vật tên Chí. Một con người bất hạnh nàm trong vòng xoáy bi kịch cự tuyệt quyền làm người.

Khác hẳn với các nhà văn hiện thực phê phán đương thời, trong tác phẩm “Chí Phèo”, Nam Cao không đi sâu vào miêu tả quá trình đói cơm rách áo, bần cùng khốn khổ… của người nông dân, mặc dù trong thực tế, đó cũng là hiện thực phổ biến. Nam Cao trăn trở, băn khoăn suy ngẫm nhiều hơn về một hiện thực còn thảm khốc, bức xúc hơn cả đói rét bần cùng, đó là hiện thực về sự tha hóa, một mối đe dọa thảm khốc trong xã hội đương thời, về nhân phẩm bị vùi dập, chà đạp bởi một bộ máy thống trị tạn bạo. Vấn đề nhâm phẩm, vấn đề quyền con người được đặt ra, chi phối cảm hứng sáng tạo trong nhiều sáng tạo của Nam Cao, trong đó Chí Phèo là tác phẩm thể hiện trực tiếp, tập trung mãnh liệt hơn cả. Mở đầu tác phầm là tiếng chửi ngoa ngoắt, thách thức của Chí Phèo đang ngật ngưỡng trong cơn say “Hắn vừa đi vừa chửi. Bao giờ cũng thế, cứ rươu song là hắn chửi. Bắt đầu hắn chửi trời. Có hề gì trời nào của riêng nhà nào? Rồi hắn chửi đời. Thế cũng chẳng sao: đời là tất cả nhưng cũng chẳng là ai. Tức mình, hắn chửi tất cả làng Vũ Đại. Nhưng cả làng Vũ Đại, ai cũng tự nhủ “Chắc nó trừ mình ra ! “Tức thật ! ờ thế này thì tức thật. Tức chết đi được mất! Đã thế, hắn phải chửi cha đứa nào không chửi nhau với hắn. Nhưng cũng không ai ra điều. Mẹ kiếp! Thế có phí rượu không? Thế có khổ hắn không? Không biết đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn cho hắn khổ đến nông nỗi này. Đẻ ra cái thằng Chí Phèo. “đây là mội tiếng chửi của một tên say rượu, một tiếng chửi vô thức. Nhưng nhiều khi vô thức, con người lại thể hiện chính mình nhiều hơn khi thức. Qua tiếng chửi của Chí Phèo ta cảm thấy như đang đối diện với một người – một vật quái gở và đơn độc ở tận cùng của sự đau khổ của mình. Và cũng qua lời chửi của Chí Phèo ta cảm thấy được 3 thái độ khác nhau ,đó là thái độ hằn học thù địch của Chí Phèo, thái độ khinh miệt dửng dưng của người đời đối với Chí, thái độ phẫn uất của tác giả thể hiện qua giọng văn vừa xót xa vừa tàn nhẫn. Trước kia Chí rất lương thiện. Chỉ sau khi ở tù về, hắn mới hóa thành một con người khác hẳn, bị tước mất cả nhân tính với “cái đầu trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen và cơng cơng, hai mắt gườm gườm trông gớm chết ” sau khi ở tù về hắn đã trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại mà không biết. Cuộc đời hắn không có ngày tháng bởi những cơn say triền miên … Hắn ăn và ngủ trong cơn say, đập đầu rạch mặt chửi bới trong lúc say, để rồi say nữa , say vô tận … Trong tác phẩm “Chí Phèo ” Nam Cao đã chỉ ra rằng Chí Phèo không phải là một ngoại lệ. Cùng với hắn còn có Binh Chức, Năm Thọ. Đó là kết quả tất yếu cho một logic, một khi đã có Bá Kiến, Lí Cương, Đội Tảo… thì ắt sẽ có Chí Phèo, Binh Chức, Năm Thọ. Đó không phải chỉ là sản phẩm của sự thống trị mà thậm trí còn là phương tiện tối cần thiết để thống trị. Như thế xã hội không chỉ đẻ ra Chí Phèo mà còn tiếp tục nuôi Chí Phèo, biến những người như Chí Phèo thành công cụ thống trị của chúng. Những người dân lương thiện ấy bị biến thành công cụ, phương tiện thống trị cho kẻ thù mà không tự biết. Nam Cao đã chỉ ra hậu quả của sự soi sáng vào quá trình miêu tả một cảm hứng nhân văn sâu sắc. Nhưng điều đặc sắc ở tác giả là ngay trong khi miêu tả nhân vật bị tha hóa đến tận cùng, ông vẫn phát hiện ra chiều sâu của nhân vật bản tính tốt đẹp vốn có, chỉ cần một chút tình thương khẽ chạm vào là có thể sống dậy mãnh liệt, tha thiết. Vì vậy, sự xuất hiện của Thị Nở – con người dường như hội tụ đủ tất cả yếu tố bất lợi cho một người phụ nữ, có một ý nghĩa thật đặt sắc. Con Người xấu ” ma chê quỷ hờn ” ấy, kì diệu thay, lại là nguồn ánh sáng duy nhất dọi vào chốn tăm tối của Chí Phèo, thức tỉnh, gợi dậy bản tính người bên trong Chí Phèo, thắp sáng một trái tim đã bị ngủ mê qua bao ngày tháng bị vùi dập và hắt hủi. Sau khi gặp Thị Nở, Chí Phèo được tập trung miêu tả qua tâm trạng bi kịch. Đó là một buổi sáng thật trong lành, bao nhiêu âm thanh êm đềm, bình dị, thân thiết dã dội vào lòng thức tỉnh của con người trong Chí Phèo. Tất cả những hình ảnh đấy, âm thanh đấy gợi nhác những giấc mơ xa xôi một thời đã làm cho Chí Phèo cảm thấy cô độc, nhất là sự cô độc khi tuổi già, cái này còn sợ hơn đói rét bệnh tật. Như vậy tình yêu thương mộc mạc của Thị Nở đã đánh thức được cái bản chất lương thiện của Chí Phèo, sau bao ngày chìm đắm trong cơn say, sau bao ngày hung dữ, hoang dại như một con thú mang hình người. Khi Thị Nở bưng bát cháo hành tới, nhìn bát cháo hành bốc khói mà lòng Chí xao xuyến bâng khuâng “. Hắn cảm thấy long thành trẻ con, hắn muốn được làm nũng với Thị như làm nũng với mẹ …Ôi sao mà hắn hiền ! Hắn thèm lương thiện – Hắn khao khát được làm hòa với mọi người ” Tù một con quỷ dữ, nhờ Thị Nở, đúng hơn là nhờ tình thưong của Thị Nở, Chí thực sự trở lại làm con người, với tất cả nhưng năng lực vốn có của con người là yêu thương, cảm xúc, ao ước. Hóa ra chỉ cần một chút tình thương, dù là tình thương của một con người dở hơi, bệnh hoạn, thô kệch, xấu xí … cũng đủ làm sống dậy cả một bản tính người nơi Chí. Thế mới biết sức cảm hóa của tình thương kỳ diệu đến mức nào ! Bằng chi tiết này Nam Cao đã soi vào tác phẩm một ánh sáng nhân đạo thật đẹp đẽ, nhà văn như muốn hòa vào nhân vật để cảm thông, chia sẻ nhưng giây phút hạnh phúc thật hiếm hoi của Chí Phèo. Nhưng bi kịch và đau đớn thay, ngay cả Thị Nở cũng không thế gắn bó với Chí Phèo. Và thật khắc nhiệt, khi bản tính nơi Chí trỗi dậy, Chí hiểu rằng mình không còn trở về với lương thiện được nữa. Chí uống rượu và càng uống lại càng tỉnh và hắn thấm thía nỗi đau thân phận con người, càng thấm thía nỗi đau đã cướp đi cái quyền làm người của hắn, cướp đi cả bộ mặt lẫn tâm hồn người. Vậy nên, thay vì đến nhà Thị Nở, Chí Phèo đã đến nhà Bá Kiến vì lòng căm thù bấy lâu nay cháy bùng lên làm cho Chí Phèo vô cùng tỉnh táo. Hành động này quá bất ngờ đối với Bá Kiến, với cả làng Vũ Đại. Ai cũng coi đây là vụ giết người dữ dội của con quỷ dữ Chí Phèo. Nhưng hôm nay, tâm hồn người trở về, mọi người cũng không nhận ra. Nam Cao miêu tả bi kịch cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo hết sức tinh tế và sâu sắc như là một quá trình tự vận động của tính cách. Từ lương thiện biến thành lưu manh. Từ một kẻ đâm thuê chém mướn bỗng thèm lương thiện, bị cự tuyệt quyền làm người thì trả thù kẻ làm hại đời mình rồi tự sát. Nam Cao vừa vạch trần cái xã hội thối nát , độc ác vừa lên tiếng đấu tranh cho những người nông dân lương thiện bị đẩy vào con đương tha hóa, lưu manh hóa.

Truyện Chí Phèo là một truyện ngắn độc đáo, thấm nhuần tinh thần nhân đạo. Một Chí Phèo tỉnh đã giết chết một Chí Phèo say. Chí chết nhưng đọng lại trong ta hình ảnh Chí đòi quyền sống, quyền được lương thiện, và Chí chết trong bi kịch của sự đau đớn. Đây không phải hành động lưu manh mà là sự vùng lên tuyệt vọng của người nông dân khi thức tỉnh cuộc sống.

Camnangbep.com đã cùng bạn tìm hiểu và phân tích quá trình thức tỉnh của Chí Phèo. Hy vọng nội dung trong bài viết đã cung cấp cho bạn những ý văn hay cũng như thông tin hữu ích trong việc học tập và tìm tòi phân tích quá trình thức tỉnh của Chí Phèo. Chúc bạn luôn học tốt!. Nếu thấy hay đừng quên share nhé!. 

Xem thêm:

Rate this post

Camnangbep.com cũng giúp giải đáp những vấn đề sau đây:

  • Quá trình thức tỉnh của Chí Phèo Facebook
  • Tóm tắt quá trình thức tỉnh của Chí Phèo
  • Sự thức tỉnh của Chí Phèo
  • Dàn ý quá trình thức tỉnh của Chí Phèo sau khi gặp Thị Nở
  • Viết một đoạn văn ngắn về sự thức tỉnh của Chí Phèo
  • Quá trình hồi sinh của Chí Phèo giáo án
  • Về sơ đồ tư duy vẻ quá trình hồi sinh của chí phèo
  • Khát vọng lương thiện của Chí Phèo

Please follow and like us :

error fb-share-icon
Tweet

fb-share-icon