Thuyết minh về một món ăn em yêu thích (8 mẫu)

Camnangbep.com cũng giúp giải đáp những vấn đề sau đây:

  • Thuyết minh về cách làm một món an ngắn nhất
  • Dàn ý thuyết minh về một món an
  • Thuyết minh về một món an dân tộc
  • Thuyết minh về món phở
  • Thuyết minh về một món ăn mà em yêu thích lớp 9
  • Thuyết minh về món an ngày Tết
  • Thuyết minh về món nem rán
  • Thuyết minh về một món an lớp 9
thuyết minh về một món ăn
thuyết minh về một món ăn

YouTube video

Bài văn mẫu thuyết minh về một món ăn dưới đây là tài liệu hữu ích dành cho các em học sinh và thầy cô. Thông qua bài văn mẫu này, các em nhanh chóng củng cố kiến thức về văn thuyết minh và có ý tưởng khi bắt tay vào viết bài.

Tên bài viết: Em hãy thuyết minh về một món ăn

Thuyết minh về một món ăn em yêu thích (8 mẫu) 2

Bạn đang đọc: Thuyết minh về một món ăn

Văn thuyết minh về món ăn yêu dấu Nội dung bài viết :

I. Dàn ý

II. Bài văn mẫu 1. Bài số 1 2. Bài số 2 3. Bài số 3 4. Bài số 4 5. Bài số 5 6. Bài số 6 7. Bài số 7 8. Bài số 8 9. Bài số 9

I. Dàn ý thuyết minh về một món ăn yêu thích

Lập dàn ý là rất thiết yếu khi những em viết một bài văn bất kể. Với dàn ý thuyết minh về món ăn dưới đây sẽ giúp những em nhanh gọn có được ý tưởng sáng tạo viết văn.

1. Mở bài

– Giới thiệu về món ăn em định thuyết minh : Bánh chưng – Đây là món ăn đặc trưng, không hề thiếu trong mâm cỗ Tết truyền thống của dân tộc bản địa Nước Ta.

2. Thân bài

a ) Nguồn gốc lịch sử vẻ vang – Không rõ thời hạn đơn cử, theo thần thoại cổ xưa kể lại vào đời vua Hùng thứ sáu, khi quốc gia thanh thản, sạch bóng quân địch, vua muốn truyền ngôi nên ban lệnh cho những hoàng tử đi tìm món ăn vừa lòng vua cha nhất để cúng Tiên vương, sẽ được nối ngôi. Trong khi những hoàng tử khác sai kẻ hầu người hạ đi tìm sản vật trên rừng xuống biển, hoàng tử thứ 18 tên là Lang Liêu vì nghèo không có tiền, trong nhà chỉ có ngô, khoai, lúa … đã được thần báo mộng làm ra hai loại bánh chưng, bánh giày ngon và ý nghĩa tượng trưng cho trời, cho đất. Bánh chưng sinh ra từ đó và tục gói bánh chưng trở thành tục lệ không hề thiếu mỗi dịp Tết đến xuân về. b ) Chuẩn bị nguyên vật liệu gói bánh chưng : – Gạo nếp hạt tròn, trắng, thật sạch được ngâm qua đêm từ 3 – 4 tiếng, sau đó để cho ráo nước, trộn đều với 1 ít muối trắng. … ( còn tiếp )

Xem bài mẫu đầy đủ TẠI ĐÂY

II. Bài văn mẫu thuyết minh về một món ăn yêu thích

Thuyết minh về cách làm món Phở Hà Nội

Đặc sản Hà Nội có nhiều, Hà Nội là địa điểm nổi tiếng với ẩm thực hấp dẫn, không chỉ đối với du khách nước ngoài mà còn lôi cuốn người Việt Nam. Nhưng nhắc đến món ăn Hà Nội là người ta nhắc đầu tiên đến phở. Phở như một thứ đại diện mang tính bản sắc, đặc thù của món ăn Hà Nội. Lý do thật đơn giản phở Hà Nội khác hẳn các nơi khác, nó không thể trộn lẫn với bất cứ một thứ phở nơi nào, cho dù ở đó người ta đã cố tình trương lên cái biển Phở Hà Nội.

Không biết, phở Hà Nội có tự bao giờ, chỉ biết rằng, phở đã đi vào trang viết của rất nhiều nhà văn như: Nguyễn Tuân, Thạch Lam, Băng Sơn hay Vũ Bằng,… Phở, dưới những ngòi bút ấy, gần như chẳng còn ai có thể tả hay hơn nữa, và cũng chẳng cần ai phải tốn công mà viết thêm về Phở nữa vì nó đã quá đủ đầy, đã quá nổi tiếng rồi.

Và cũng không biết từ bao giờ phở đã trở thành món ngon nổi tiếng và khi thưởng thức phở ở Hà Nội người ta mới thấy được hương vị truyền thống. Phở Hà Nội là một món ăn đặc biệt của người Hà Nội đã có từ rất lâu.

Thạch Lam trong “Hà Nội ba 36 phố phường” viết: Phở là một thứ quà đặc biệt của Hà Nội, không phải chỉ riêng Hà Nội mới có, nhưng chính là vì chỉ ở Hà Nội mới ngon”. Phở ngon phải là phở “cổ điển”, nấu bằng thịt bò, “nước dùng trong và ngọt, bánh dẻo mà không nát, thịt mỡ gầu giòn chứ không dai, chanh ớt với hành tây đủ cả”, “rau thơm tươi, hồ tiêu bắc, giọt chanh cốm gắt, lại điểm thêm một ít cà cuống, thoảng nhẹ như một nghi ngờ”. Vào thời những năm 1940, phở đã rất phổ biến ở Hà Nội: “Đó là thứ quà ăn suốt ngày của tất cả các hạng người, nhất là công chức và thợ thuyền. Người ta ăn phở sáng, ăn phở trưa và ăn phở tối….

Nguyễn Tuân, nhà văn của “Vang bóng một thời” đã có một tùy bút xuất sắc về phở. Ông cho phở có một “tâm hồn”, phở là “một miếng ăn kỳ diệu của tất cả người Việt Nam chân chính”. Cố đạo diễn điện ảnh Phạm Văn Khoa lúc sinh thời kể rằng, có lần ông cùng Nguyễn Tuân đang ăn phở, một người yêu thích nhận ra nhà văn bước lại chào nhưng Nguyễn Tuân vẫn vục đầu vào ăn. Người kia chắc chắn mình không nhầm đã kiên trì chờ đợi. Hết tô phở Nguyễn Tuân mới ngẩng mặt lên bảo “Tôi đang thưởng thức nên không trả lời, anh thứ lỗi”. Nhà văn không dùng chữ ăn mà dùng chữ thưởng thức.

Phở được dùng riêng như là một món quà sáng hoặc trưa và tối, không ăn cùng các món ăn khác. Nước dùng của phở được làm từ nước ninh của xương bò: xương cục, xương ống và xương vè. Thịt dùng cho món phở có thể là bò, hoặc gà. Bánh phở phải mỏng và dai mềm, gia vị của phở là hành lá, hạt tiêu, giấm ớt, lát chanh thái. Phở luôn phải ăn nóng mới ngon, người Hà Nội còn ăn kèm với những miếng quẩy nhỏ. Tuy nhiên, để có được những bát phở ngon còn tùy thuộc vào kinh nghiệm và bí quyết truyền thống của nghề nấu phở.

Trong món phở Hà Nội công đoạn chế biến nước dùng, còn gọi nước lèo, là công đoạn quan trọng nhất. Nước dùng của phở truyền thống là phải được ninh từ xương ống của bò cùng với một số gia vị. Xương phải được rửa sạch, cạo sạch hết thịt bám vào xương cho vào nồi đun với nước lạnh. Nước luộc xương lần đầu phải đổ đi để nước dùng khỏi bị nhiễm mùi hôi của xương bò, nước luộc lần sau mới dùng làm nước lèo. Gừng và củ hành đã nướng đồng thời cũng được cho vào.

Lửa đun được bật lớn để nước sôi lên, khi nước đã sôi thì phải giảm bớt lửa và bắt đầu vớt bọt. Khi đã vớt hết bọt, cho thêm một ít nước lạnh và lại đợi nước tiếp tục sôi tiếp để vớt bọt…Cứ làm như vậy liên tục cho đến khi nước trong và không còn cặn trong bọt nữa. Sau đó, cho một ít gia vị vào và điều chỉnh độ lửa sao cho nồi nước chỉ sôi lăn tăn để giữ cho nước khỏi bị đục và chất ngọt từ xương có đủ thời gian để tan vào nước lèo.

Có thể nói, phở Hà Nội có cái ngọt chân chất của xương bò, cái thơm của thịt vừa chín đến độ để vẫn dẻo mà lại không dai. Màu nước phở trong, bánh phở mỏng và mềm. Chỉ nhìn bát phở thôi cũng đủ thấy cái chất sành điệu, kỹ càng trong ăn uống của người Hà Nội. Một nhúm bánh phở đã trần qua nước nóng mềm mại dàn đều trong bát, bên trên là những lát thịt thái mỏng như lụa điểm mấy ngọn hành hoa xanh nõn, mấy cọng rau thơm xinh xắn, mấy nhát gừng màu vàng chanh thái mướt như tơ, lại thêm mấy lát ớt thái mỏng vừa đỏ sậm vừa màu hoa hiên.

Tất cả màu sắc đó như một bức họa lập thể hơi bạo màu nhưng đẹp mắt cứ dậy lên hương vị, quyện với hơi nước phở bỏng rẫy, bốc lên nghi ngút, đánh thức tất thảy khả năng vị giác, khứu giác của người ăn, khiến ta có cảm giác đang được hưởng cái tinh tế của đất trời và con người hợp lại. Chỉ húp một tý nước thôi đã thấy tỉnh người. Thịt thì mềm, bánh thì dẻo, thỉnh thoảng lại thấy cái cay dịu của gừng, cái cay nồng của ớt, cái thơm nhè nhẹ của rau thơm, cái thơm của thịt bò tươi mềm. Tất cả cứ ngọt lừ đi, ngọt một cách hiền lành, êm nhẹ mà chân thật, tuyệt kỹ hài hòa.

Ta có thể thưởng thức nhiều hương vị phở tại Hà Nội. Có ba món phở chính: Phở nước, Phở xào, Phở áp chảo. Trong ba loại phở trên thì phở nước là phổ biến hơn cả. Phở nước gồm có: Phở Bò, phở Gà, phở Tim gan. Tuy nhiên, người sành điệu chỉ ăn phở chuộng nhất phở Bò, thứ đến là phở gà và không chấp nhận những loại phở khác.

Đối với du khách nước ngoài thì phở được coi là món ngon hấp dẫn và lạ miệng bởi sự tinh túy. Để thưởng thức phở ngon thì cần phải để phở trong bát sứ chứ không phải là bát thủy tinh hay bát nhựa. Bát đựng phở không được quá to hay quá nhỏ. Nếu bát quá nhỏ, nước dùng sẽ chóng nguội và không có đủ chỗ để thịt, rau thơm và gia vị. Nếu bát to quá thì chưa ăn hết một bát bạn đã thấy chán vì phở chỉ là một món ăn nhẹ hoặc món ăn thêm.

Khi ăn phở, một tay cầm đũa còn tay kia cầm thìa. Dùng đũa tre là thích hợp nhất vì nó giản dị và không bị trơn khi gắp bánh phở. Bàn ăn phở cần hơi thấp so với bình thường để nước dùng không vương vào quần áo bạn khi cúi xuống gắp sợi bánh phở lên ăn.

Trông bạn sẽ rất kỳ cục nếu bạn uống bia hoặc trà đá khi ăn phở. Tuy nhiên, bạn nhấm nháp một chén cuốc lủi để bát phở thêm ngon thì có thể chấp nhận được. Nhưng thường thì không dùng đồ uống hoặc các đồ ăn khác khi ăn phở, ăn như vậy mới càng thấy phở ngon.

Nếu có cơ hội đến với Hà Nội thì bạn nên thưởng thức hương vị phở đặc trưng này nhé! Phở Hà Nội là như thế, đó là cái ngon của tất thảy những chất liệu đời thường Việt Nam nhưng đã được bàn tay tài hoa của người Hà Nội làm thành tác phẩm!

Thuyết minh về cách làm bánh trôi nước

Cứ vào ngày 3 tháng 3 âm lịch hằng năm, mọi người lại làm bánh trôi, bánh chay. Đây là một phong tục cổ truyền rất quen thuộc với mọi người dân Việt Nam.

Nguyên liệu để nấu bánh rất thông dụng, quen thuộc. Trước tiên, chúng ta phải có gạo nếp ngon. Có thể trộn thêm gạo tẻ nhưng gạo nếp vẫn phải chiếm đa số. Có gạo làm vỏ bánh, cần có thêm đường làm nhân để tạo vị ngọt cho bánh. Nhân bánh truyền thống là bằng mật có vị thơm đậm đà. Ngày nay, nhiều gia đình dùng đường phèn có vị thơm mát. Để làm nhân bánh chay, chúng ta cần đậu xanh xay nhuyễn. Ngoài ra, cần một ít vừng, cùi dừa để rắc lên hai loại bánh.

Cách làm bánh khá đơn giản. Đầu tiên là ngâm gạo khoảng 6 đến 8 tiếng sau đó vo gạo. Vo xong, đổ gạo ra xay nước. Chú ý là không được xay khô vì như thế sẽ làm vụn gạo và các hạt sau khi xay sẽ to nhỏ không đều nhau. Xay xong đổ tất cả bột vào túi vải, buộc chặt, lấy tay nén từ từ, nhẹ nhàng để vắt nước ra. Tránh ấn mạnh tay sẽ làm bung túi vải. Nén hết nước, ta sẽ có một thứ bột dẻo để làm vỏ bánh.

Tiếp theo sẽ là bước nặn bánh. Bánh trôi được nặn tròn, to vừa phải. Cho một viên đường vào trong, nặn bột bao kín để khi luộc, đường không chảy ra. Nhân bánh chay là đậu xanh được đãi sạch vỏ, đồ chín, xay nhuyễn. Bánh và nhân phải theo một tỉ lệ hợp lí. Không nên để bánh hay nhân quá to hoặc quá nhỏ sẽ làm mất ngon khi ăn.

Tinh tế nhất là luộc bánh. Đun sôi nước rồi mới thả bánh vào. Đợi đến lúc bánh nổi lên trên mặt nước, nhẹ nhàng vớt lấy rồi thả ngay vào nước sạch và lạnh. Nếu để nóng quá lâu bánh sẽ bị chảy, không dẻo và ngon.

Thưởng thức bánh trôi, bánh chay là cả một nghệ thuật. Bánh trôi được bày vào đĩa, rắc lên trên một lớp vừng mỏng và một chút sợi cùi dừa. Bánh chay được bày trong bát. Đun nước đường pha với bột sắn rồi chan ngập mặt bánh. Ở trên rắc một ít hạt đậu xanh chín xay vỡ đôi đã đãi sạch vỏ. Màu trong của bánh, của nước dùng hài hòa với màu vàng tươi của hạt đậu xanh trông thật đẹp mắt. Đây đều là hai loại bánh ăn nguội. Bánh trôi cho vào miệng, ngậm lại rồi cắn sẽ cảm nhận được vị ngậy của gạo, vị ngọt của đường. Còn bánh chay, dùng thìa xúc miếng bánh, cắn nhẹ sẽ thấy vị ngọt mát, thơm dẻo. Với cả hai loại bánh, nếu thích, có thể cho thêm chút tinh dầu hoa bưởi.

Bây giờ, người ta không tự làm bánh nhiều như trước mà phần lớn đều đi mua khi cần. Nhưng phải tự tay mình nấu rồi thưởng thức mới cảm nhận hết cái ngon của bánh. Bánh trôi, bánh chay sẽ mãi là hai món ăn truyền thống đặc sắc của người Việt Nam.

Thuyết minh cách làm món mỳ Quảng

“Anh về nơi xứ Quảng thăm người em phố Hội.
Sông Thu Bồn con nước lững lờ trôi.
Đường chùa Cầu mưa buồn giăng ngập lối.
Rừng thông xanh mưa thấm ướt bờ môi”

Nhắc đến miền đất Quảng Nam, người ta không chỉ nhớ đến mảnh đất từng một thời anh hùng trong chiến đấu, mảnh đất của bạt ngàn những rừng keo xanh mướt, nhớ đến một Hội An cổ kính rực rỡ đèn lồng, là chỗ dừng chân lý thú của nhiều du khách trong và nước. Mà người ta còn nhớ lắm Quảng Nam với một nền ẩm thực đặc sắc và đậm đà tình cảm giống hệt những con người nơi đây. Nếu như Hà Nội có phở, có cốm, Huế có cơm hến, bún bò, thì Quảng Nam cũng không thua kém với bánh tráng cuốn thịt heo và mì quảng. Trong đó tôi vẫn ấn tượng nhất với vùng đất Đà Nẵng – Quảng Nam ở món mì Quảng này, sợi gần như phở, nhưng hương vị thì quả thực khác xa.

Có thể nói rằng mì Quảng chính là linh hồn của ẩm thực xứ Quảng, người ta đến với vùng đất này thì khó có thể bỏ qua một món ăn có nhiều thanh sắc vị, lại rất bình dân thân thiện này được. Không ai biết được rằng mì Quảng đã bắt đầu trở thành một món ăn hấp dẫn và bầu bạn với những người con miền Trung từ thuở nào, chỉ có một số tài liệu còn chép lại thì có mì Quảng bắt nguồn từ sự giao thoa văn hóa Việt – Trung. Trung Quốc vốn là một đất nước có nền ẩm thực phong phú, đặc biệt là với các nguyên liệu từ lúa gạo người ta có thể biến tấu ra hàng trăm món khác nhau, mà các món mì lại càng chiếm ưu thế. Khi người Trung Quốc vào thành phố Hội An bởi các công việc giao thương, họ đã mang sang cả một chút ẩm thực dân tộc, mà người Việt ta thì chẳng bao giờ thôi không sáng tạo. Từ món mì truyền thống của họ ta cũng làm món mì của ta, nhưng hương sắc vị thì lại khác hẳn, ngon và hợp khẩu vị của dân tộc mình và sau nhiều đời thêm bớt, phát triển, ngày nay ta đã có một món ăn thật đặc sắc và đáng để nghiên cứu thưởng thức.

Tôi đã ăn mì Quảng nhiều lần, dường như nó đã từng một thời trở thành bữa ăn sáng nề nếp. Cái hương vị nồng nàn ấy cho dù đến sau này tôi hiếm còn có dịp ăn lại nữa thì vẫn khó mà có thể quên được. Một bát mì Quảng ngon, cũng giống như một bát phở ngon vậy, hai thứ quan trọng là nước lèo và sợi mì thì nhất thiết phải chỉn chu và kỹ lưỡng. Nước lèo phải có màu vàng nâu, óng ánh mỡ, vị hòa quyện của tôm, thịt ba chỉ và trứng cút nấu chung, nếm vào phải thấy hơi mặn, độ ngọt vừa phải, thêm một chút cay cay của ớt đỏ là ổn. Còn sợi mì bắt buộc phải trắng ngần, mỡ màng và sáng, không bị đứt gãy nhiều hay nát và cũng không dính chặt vào nhau. Bên cạnh hai thứ chính như vậy thì mì Quảng cổ truyền nhất thiết phải có thịt heo và trứng cút làm chủ, thêm vào đó là các gia vị phụ liệu mà tương truyền phải có đủ chín vị thì mới ngon bao gồm: Húng quế, xà lách tươi, rau cải non, giá đỗ, ngò rí, rau răm, hành hoa thái nhỏ, bụp chuối lát mỏng. Ngoài ra người nấu còn bày sẵn ớt, chanh và nước mắm để thực khách có thể thêm vào nếu thích. Ngày nay mì Quảng đã có nhiều biến thể để phục vụ nhu cầu của khách tứ xứ, mà thứ thay đổi chủ yếu chính là phần thịt trong mì Quảng, người ta có thể đổi thịt heo thành thịt gà, thịt ếch, tôm, cá lóc và thậm chí là cả thịt bò cho thêm phần phong phú. Đồng thời bớt đi một số món rau ăn kèm. Không giống như phở Hà Nội cái sự “cải lương” này của mì Quảng lại dễ khiến người dân nơi đây thích ứng và chào đón nhiệt liệt, hệt như cái cách mà họ đón khách từ tứ xứ tới làm ăn vậy.

Về cách làm thú thực mì Quảng là một món khá dễ chế biến, không quá cầu kỳ như khi nấu phở, nấu bún nhưng để có được một tô mì Quảng ngon lành thì người nấu ắt phải lành nghề và có nhiều kinh nghiệm nêm nếm nước lèo. Muốn nấu ngon thì công đoạn chọn nguyên liệu phải thật kỹ càng, sườn non chọn loại ngon, sụn không quá cứng hoặc quá mềm, chặt nhỏ, đem ướp bằng các gia vị như hành tím băm nhỏ, muối, ớt, tiêu, mì chính, nước mắm ngon, nước màu trong vòng 20 phút. Tôm chọn loại cỡ vừa sơ chế, rút chỉ đất ở lưng rồi ướp tương tự như sườn non. Sau khi ướp cho lên bếp xào cho thịt thăn lại, rồi chế thêm một ít nước, nấu sôi, sao cho sườn vừa chín tới, nước lèo đậm đà là được. Tôm được xào sau, khi vừa chín thì đổ chung với nồi thịt và trộn đều. Ngoài ra người ta còn luộc trứng cút, bóc vỏ sẵn sau đó khi nồi thịt tôm gần được thì cho vào, để món mì Quảng thêm đậm đà. Với sợi mì Quảng, thường các hàng quán sẽ đặt làm số lượng lớn ở các cơ sở chuyên sản xuất. Sợi mì được làm bằng bột gạo tẻ, khi tráng bánh và cắt sợi người ta còn thêm một ít dầu vừng, dầu lạc để sợi mì được mượt và đỡ dính lại thơm. Khi thực khách gọi món, người bán sẽ nhanh chóng xếp rau sống vào một cái bát to, sau đó xếp mì quảng lên trên, múc vào một ít thịt, tôm tùy thích, rồi chan nước lèo chồng lên. Lưu ý rằng mì Quảng không phải là các món bún phở thông thường lúc nào cũng phải xăm xắp nước, mà mì Quảng chỉ cần một chút nước lót đáy cho thêm đậm đà. Sau khi chan nước lèo, người bán thêm chút đậu phộng rang giòn cho dậy mùi, một chút bánh phồng tôm hoặc bánh đa, để làm cho món ăn thêm phong phú, dồi dào hơn.

Có thể nói rằng mì Quảng không hẳn gọi là cao lương mĩ vị, cũng không phải món cần người sành ăn thưởng thức, mà nó thực sự là một món ăn dân dã và gần gũi với cộng đồng vô cùng. Ai cũng có thể ăn được nó như thế dần dà nó đã đi vào nếp sống của người dân miền trung như một người bạn đậm đà và thân mến. Trở thành một nét văn hóa đặc sắc trong ẩm thực Đà Nẵng – Quảng Nam. Nói là mì Quảng nhưng thực tế đến Đà Nẵng ta thậm chí còn ăn được nhiều món mì Quảng ngon tuyệt vời hơn cả quê hương của nó nữa.

Thuyết minh về cách làm món cơm rang thập cẩm

Có rất nhiều món ăn phong phú để người nội trợ làm phong phú cho bữa ăn trong mỗi gia đình. Nhờ vậy, ta có thể thấy các món ăn chính hay phụ tuỳ theo sở thích và khẩu vị mỗi người. Trong đó, Cơm rang thập cẩm là một món ăn quen thuộc với mỗi người, giúp ta thay đổi khẩu vị cơm trắng thông thường mà vẫn có đủ thành phần dinh dưỡng cần thiết cho bữa ăn.

Nguyên liệu làm món ăn này rất phong phú, đa dạng, có thể tùy theo sở thích, khẩu vị và khả năng của mỗi người để chọn ra nguyên liệu phù hợp. Các nguyên liệu chủ yếu bao gồm : gạo nấu cơm (500 gam), giò lụa (80 gam), chả quế (80 gam), đậu Hà Lan, một củ khoai tây, nửa củ cà rốt, hai quả trứng gà, một ít dưa chua, nước mắm, dầu ăn. Cần chuẩn bị sao cho lượng nguyên liệu phù hợp với số người ăn, không thừa hay thiếu. Ngoài ra ta có thể chọn thêm một ít rau thơm, một quả cà chua nhỏ, một quả dưa chuột để trang trí cho món ăn thêm phần hấp dẫn.

Cách làm món ăn này không khó nhưng người đầu bếp cần biết điều tiết thời gian làm các bước cho hợp lí. Trước tiên, ta rửa sạch khoai tây, cà rốt và rau, rồi để cho ráo nước. Sau đó, cắt đều khoai tây, cà rốt, giò chả thành những miếng nhỏ,hình hạt lựu. Đặt chảo lên bếp, vặn lửa vừa phải và đổ dầu ăn vào chảo. Đợi mộ tchút cho dầu nóng già thì đổ cơm vào đảo đều. Đảo một lúc cho hạt cơm săn lại thì đập trứng vào. Tiếp tục đảo đều cho cơm thấm đều trứng. Cho lần lượt khoai tây, cà rốt, giò chả, đậu Hà Lan, dưa chua vào chảo. Tuỳ theo khẩu vị có thể tra thêm nước mắm, mì chính cho vừa miệng. Chú ý cần đảo đều, liên tục để các nguyên liệu phân bố đều. Khi cơm chín, vàng đều, bắc chảo ra, tắt bếp rồi cho cơm ra một đĩa lớn. Trình bày quanh đĩa mấy lát dưa chuột, cà chua và một ít rau thơm để thêm đẹp mắt và ngon miệng cho bữa ăn.

Tuy cách chế biến món ăn này không khó nhưng cần đạt được các yêu cầu thành phẩm sau đây: về màu sắc, khi chín, cơm phải vàng đều và có màu đặc trưng của các nguyên liệu. Về mùi vị, độ mặn vừa ăn, có mùi thơm của trứng và các nguyên liệu khác.

Cơm rang thập cẩm không khó làm và không tốn quá nhiều thời gian chế biến. Chỉ cần có một chút cẩn thận trong khâu nguyên liệu là có thể tạo nên cho bữa ăn gia đình với một hương vị mới. Nó còn giúp người nội trợ tiết’ kiệm được các nguyên liệu thừa để làm phong phú thêm cho món ăn. Hi vọng, món ăn này sỗ góp phần làm cho bữa ăn gia đình mọi người thêm phần bổ dưỡng và ấm cúng.

Thuyết minh về cách làm món bún riêu

Trong kho tàng quý báu về tinh hoa của dân tộc, thì ẩm thực đóng vai trò quan trọng vào việc góp phần thể hiện bản sắc dân tộc và làm cho các món ăn Việt Nam trở nên phong phú và hấp dẫn hơn.

Ông cha ta có câu : “Có thực mới vực được đạo”. Phải chăng câu tục ngữ này cũng nhắc nhở chúng ta cần tôn trọng bữa ăn về cả hình thức lẫn chất lượng.Vì vậy món ăn rất quan trọng cho cuộc sống. Vì có ăn thì mới có sức khoẻ và có sức khoẻ thì mới làm được mọi việc. Và từ xa xưa, con người đã hiểu được điều đó. Họ đã cố gắng tìm tòi, cải tiến để các món ăn vừa đậm đà màu sắc dân tộc,vừa ngon, vừa bổ lại vừa đẹp mắt.

Những món ăn đặc sắc của Việt Nam thì rất nhiều, nhưng món ăn tôi cảm thấy thích.nhất đó là món Bún riêu cua – một món ăn nổi tiếng của Hà Nội. Cứ mỗi lần gặp người bạn cũ, thì chúng ta thường chiêu đãi nhau món Bún riêu cua.

Vào trời se lạnh, tới một quán bún riêu nhỏ của cô hàng gánh, ngồi quanh nồi nước dùng bốc hơi nghi ngút, so đôi đũa lau đi lau lại và ngửi thấy hương vị đặc trứng của ốc và các phụ gia đã thấy ngon rồi. Cô hàng bún nở nụ cười đon đả mời khách. Tay bốc nắm bún trắng tinh từ lớp lá sen xanh lót dưới. Sợi bún trắng,to trông đến vui mắt. Từng thìa cua giã nhuyễn, đun chín được đơm vào bát thật ngon. Mùi cua thơm phi hành làm ai nấy đi qua cũng muốn dừng chân đứng lại dù có bận rộn đến đâu. Nhìn nồi nước dùng sôi âm ỉ, liên tục, với màu cà chua đỏ thơm ngon. Cô hàng chan từng muôi một làm cho khách hàng chờ đợi, ước ao, chỉ muốn được thưởng thức món ăn. Thêm vào đó mùi bỗng, mùi hành, mùi ớt chưng quyện vào nhau hấp dẫn vô cùng. Khi ăn từng miếng một mới thấy hết sự đậm đà của món ăn. Ai là người sành ăn, điểm thêm chút ớt chưng đo đỏ, cay cay và thêm ít dấm bỗng chua vào bát thì mới cảm nhận được thế nào là bún riêu Hà Nội. Bên cạnh là bát rau thơm : xà lách, tía tô, mùi,… thì mới là bát riêu cua hoàn chỉnh. Người ăn húp từng thìa nước mà còn thấy cay đến tận trong miệng, ăn bún riêu mà nóng rát lưỡi và cay chảy nước mắt thì mới thấy ngon, mới nhớ lâu.

Bún riêu cua để lại dư âm cho mọi người ở xa đến thăm Hà Nội và là món quà rất khó quên. Bún riêu có nét riêng của nó, người Hà Nội thích thưởng thức nó trong cái rét ngọt của mùa đông xứ Bắc. Cái thời tiết trái chứng đó hình như càng làm cho bát bún ấm áp, đậm đà hơn. Quả thực, món ăn có cái gì đó làm cho người ta nhớ mãi chẳng phải vì nó là món ăn mà nó còn là sở thích của từng người. Từ ý thích về ăn uống có thể nhận biết được tính cách của từng người. Bún riêu chính là món ăn như vậy.

Mỗi vùng, mỗi miền tự hào về đặc sản riêng của họ. Bánh gai Hải Dương, Bánh dày Quán Gánh, Giò chả Ước Lễ, Dừa Bình Định,… và còn nhiều món ăn khác nữa.Nhưng Bún riêu cua là niềm tự hào của mảnh đất Hà thành.

Bạn có thể không đồng quan điểm như tôi, nhưng bạn cũng nên biết tới Bún riêu Hà Nội. Hãy mời bạn thân của mình cùng thưởng thức món Bún riêu này. Chắc chắn họ sẽ có ấn tượng về nó ngay từ phút đầu.

Thuyết minh về cách làm món vịt quay me

Nhắc đến những món ăn được làm từ vịt: vịt quay Bắc Kinh, vịt quay Lạng Sơn, vịt nướng,… ai ai cũng nghĩ đến một món ăn béo ngậy. Nhưng có một món ăn cũng được chế biến từ vịt mà không hề gây cảm giác béo ngậy. Đó là món vịt quay me.

Nguyên liệu làm món vịt quay me khá cầu kì. Trước hết, ta cần có một con vịt cân nặng chừng 1,5 kg, chú ý mua vịt còn sống, tránh mua vịt làm sẵn; một miếng gừng khoảng 50 gram; ba thìa (muỗng) rượu trắng, hành ta, tỏi, tiêu, muối, đường, bột ngọt, dấm, hai thìa cà phê dầu mè, một quả dừa xiêm, hai thìa súp tương hột, một vắt me chín to, một muỗng súp bột năng, 100gr xà lách xoong, hai quả cà chua, hai quả ớt, hành lá, một củ cà rốt, một củ cải trắng, hai chiếc bánh mì.

Khi đã có đủ những nguyên liệu cần thiết, ta tiến hành sơ chế. Trước hết, với hành và tỏi ta cần băm nhỏ. Với vịt, cần cắt tiết, làm sạch lông, rửa sạch rồi moi dưới bụng lấy bộ lòng ra. Gừng giã nhỏ, hoà với rượu, vắt lấy nước, tẩm vào vịt, để độ nửa giờ để vịt bớt tanh. Sau đó, rửa sạch vịt, để ráo, ướp vào vịt những gia vị sau: hành tỏi băm nhỏ, một chút tiêu, muối, đường, bột ngọt và dầu mè sao cho vừa ăn. Tiếp đến cho vịt vào chảo mỡ đã khử tỏi, rán (chiên) vàng. Vịt rán xong đem chặt miếng vừa ăn.

Me chín ta cho nước nóng vào, tán cho me ra chất chua. Với cà chua, ớt, hành lá thì tỉa hoa; riêng ớt ta để lại một chút đem băm nhỏ, lọc bỏ hạt. Cà rốt, củ cải trắng cũng tỉa hoa rồi đem ngâm dấm và đường.

Sau những việc trên, ta cho vịt đã chiên vàng vào xoong, chế nước dừa vào cho ngập, bắc lên bếp, nấu cho vịt mềm.

Tiếp theo, bắc chảo mỡ nóng, phi thơm hành tỏi, cho tương hột và nước me vào, nêm chút đường, bột ngọt, tiêu vừa ăn, cho vào đó vịt đang hầm, nấu tiếp cho vịt thật mềm là được, nếm lại cho vừa ăn. Bột năng hoà nước cho vào cho nước nấu được sanh sánh, nhắc xuống.

Vậy là công đoạn nấu nướng đã xong, để việc chuẩn bị thưởng thức món vịt quay me được trọn vẹn, ta cần trang trí món ăn sao cho đẹp mắt. Ta xẻ vịt ra đĩa sao cho giống hình dáng con vịt đang ngồi, miệng vịt cho ngậm hoa ớt, đùi vịt quấn giấy cắt tua, giữa để cà chua và ớt tỉa hoa, xung quanh để xà lách xoong và cà rốt, củ cải trắng tỉa hoa cho xen kẽ. Món ăn này nên dùng nóng với bánh mì.

Món vịt quay me thường được thấy trong thực đơn của những nhà hàng sang trọng. Tuy nhiên, chúng ta cũng có thể tự làm món ăn này trong những ngày nghỉ rảnh rỗi có nhiều thời gian. Khi ấy, cả gia đình quây quần cùng thưởng thức món ăn sang trọng này thì thật thú vị!

Thuyết minh về cách làm món bún thang

Bún thang là một món ăn truyền thống của những gia đình khá giả Hà Nội xưa. Bún thang không được nổi tiếng như phở và bún chả vì hiếm có những gia đình còn biết cách làm bún thang. Hơn nữa, hầu hết các gia đình biết làm thì đều khá giả nên không phải làm nghề kinh doanh bún thang.

Hà Nội có quán bún thang nổi tiếng nhất là quán bà Âm ở khu phố cổ. Nhưng để có thể ăn được những bát bún thang ngon nhất, đầy đủ nhất thì ta phải tự làm tại gia.

Như cái tên đã cho ta biết, bún thang chắc chắn là phải có bún. Nhưng nếu thế thôi thì sẽ chẳng là gì cả, vì bún trắng chỉ là cái nền, như một tờ giấy trắng chờ đợi người hoạ sĩ vẽ lên cho các món ăn khác. Trứng gà đánh đều cho đến khi lòng đỏ quện đều với lòng trắng, rồi tráng thật mỏng, độ thành công của khâu tráng trứng tất cả phụ thuộc vào độ mỏng của trứng rán được. Tráng xong, trứng cùng với giò lợn được thái chỉ thật nhỏ ra, chỉ nhỉnh hơn sợi bún một chút thôi. Đùi gà luộc xé phay phần thịt ra (tuyệt đối không được dùng kéo). Củ cải khô ngâm trong nước ấm cho nở ra rồi chắt nước đi. Xếp các nguyên liệu vào bát rồi rắc lên một chút hành răm băm nhỏ, ta đã thấy bao nhiêu sắc màu rồi: vàng tươi của trứng, vàng ngậy của gà, màu nâu nâu của giò, màu xanh đậm của hành răm, rồi lại lấp ló màu trắng của bún. Nhưng không thể thiếu được mắm tôm vì nó là cái duyên thầm của bún thang, không có mắm tôm thì bún sẽ rất nhạt nhẽo. Thậm chí có người còn ví: “Bún thang mà không có mắm tôm thì khác gì phở không có nước”. Có người còn nói quá lên: “Bún thang mà không có mắm tôm thì khác gì phở gà không có gà”. Thật là uổng phí cho những ai không ăn được mắm tôm! Nước dùng của bún thang cũng quan trọng không kém gì! Nước dùng của bún thang khá độc đáo so với nước của các món bún, phở khác. Không chỉ có xương gà mà còn có cả tôm biển và nấm hương nữa. Vì vậy, nước dùng bỗng trở nên thanh tao và hấp dẫn hơn rất nhiều. Cho nước vào bát bún và múc vào một vài con tôm đỏ chót cùng vài cọng nấm hương, ta thấy mùi thơm bốc lên ngào ngạt. Nhưng hãy khoan! Còn phải chấm thêm một đầu tăm tinh dầu cà cuống vào nữa, để tạo ra một vẻ bí ẩn, bí ẩn đến quái đản nhưng lại quyến rũ!

Bún thang phải được thưởng thức ở một nơi lịch sự nếu không thì giá trị sẽ giảm đi nhiều. Bàn ghế phải vừa tầm với người ăn, bún phải đặt trong những chiếc bát sứ Bát Tràng và phải dùng đũa bằng gỗ (tuyệt đối không dùng đũa nhựa) để thưởng thức. Thực khách sẽ tự nêm vào bát bún của mình chanh, giấm, ớt,… tuỳ theo khẩu vị riêng. Để cảm nhận được cái ngon, ta phải ăn thật từ tốn và thanh lịch và không được cầm cả bát bún lên húp soạt. Ăn xong, ta sẽ vừa ngồi uống trà, ăn trái cây, vừa nói chuyện. Một phần là để vui vẻ thân mật, một phần là để rửa trôi đi những phần tanh còn sót lại của thức ăn.

Văn hoá và tính cách của người Hà Nội được thể hiện qua bát bún thang: Sự đa dạng và kĩ càng của từng nguyên liệu thể hiện tính cẩn thận, hương vị thanh tao và trung tính nhường quyền cho thực khách nêm nếm theo khẩu vị riêng thể hiện tinh thần hòa nhã và cách thưởng thức bún thể hiện sự lịch sự của người Hà Nội.

Thuyết minh về cách làm món nem rán

Việt Nam được biết đến là đất nước có nền văn hóa ẩm thực khá phong phú. Chúng ta có thể kể tên các món ăn đặc sản của dân tộc như bánh chưng, bánh cốm, phở, bún bò,… và đặc biệt là món nem rán. Đây là món ăn vừa cao quý lại vừa dân dã, bình dị để lại một mùi vị khó phai mờ trong mỗi chúng ta.

Nem rán có nguồn gốc từ Trung Quốc, thuộc nhóm các món Dimsum. Món ăn này đã theo chân những người Hoa khi di cư sang nước ta và được biến đổi thành món ăn phù hợp với khẩu vị người Việt. Nem rán không chỉ phổ biến ở Việt Nam, Trung Quốc mà nó còn góp mặt trong ẩm thực của đất nước Nhật Bản, Hàn Quốc, Pháp, Đức, Ba Lan và nhiều nước Trung, Nam Mĩ,… với các tên gọi khác nhau như Harumaki, Chungwon, Rouleau de printemps, Sajgonki,…Ở Việt Nam, tùy theo vùng miền mà món ăn này có những tên gọi riêng. Nem rán là cách gọi của người dân miền Bắc, người miền Trung gọi là chả cuốn và chả giò là cách gọi của người dân miền Nam.

Nguyên liệu chế biến món nem rán khá đa dạng nhưng cũng hết sức dễ tìm. Để món ăn đầy đủ các thành phần dinh dưỡng chúng ta cần chuẩn bị thịt băm, trứng gà hoặc trứng vịt, hành tây, hành lá, cà rốt, su hào, giá đỗ, rau mùi, rau thơm, mộc nhĩ, mì hoặc miến,…và một số loại gia vị như mì chính, bột canh, hạt tiêu, nước mắm,…Những gia vị này sẽ giúp món ăn thêm phần đậm đà, hấp dẫn. Một thứ không thể thiếu đó chính là bánh đa nem. Bánh đa nem được làm từ gạo và khi chọn ta cần lựa những lá bánh mềm, dẻo để khi gói không bị vỡ.

Để có được món nem rán thơm phức hoàn hảo, trước hết chúng ta cần sơ chế các nguyên liệu đã chuẩn bị. Chúng ta ngâm nấm và mộc nhĩ cho đến khi chúng nở ra rồi rửa sạch, thái nhỏ. Đồng thời các loại rau củ cũng gọt vỏ, rửa sạch và thái hoặc đuôi nhỏ. Mì hoặc miến ngâm nước ấm trong khoảng năm phút rồi cũng cắt thành từng đoạn ngắn. Sau đó, cho tất cả các nguyên liệu vào âu hoặc bát to, đập thêm trứng, nêm thêm gia vị rồi trộn đều. Số trứng dùng để làm nem không nên quá nhiều vì như thế sẽ khiến nhân nem ướt rất khó cuộn và cũng không nên quá ít vì nem sẽ bị khô. Vì vậy, khi đập trứng ta nên đập lần lượt từng quả để ước lượng lượng trứng phù hợp. Màu cam của những sợi cà rốt, màu trắng của mì, màu xanh của rau, màu vàng của trứng,… tất cả hòa quyện với nhau trông thật hài hòa. Chúng ta sẽ ướp phần nhân nem từ 5 đến 10 phút để các gia vị ngấm đều.

Tiếp theo, chúng ta trải bánh đa nem trên một mặt phẳng rồi cho nhân nem vào cuộn tròn. Bánh đa nem có loại hình tròn, hình vuông, cũng có loại hình chữ nhật, tùy theo sở thích mà mỗi người lại lựa chọn những loại bánh đa nem khác nhau. Nếu muốn bánh đa nem mềm và giòn thì trước khi cuốn nem nên phết lên bánh đa nem một chút nước giấm pha loãng với đường và nước lọc. Chúng ta nên gấp hai mép bánh đa nem lại để phần nhân nem không bị chảy ra ngoài. Sau đó, đun sôi dầu ăn rồi cho nem vào rán. Khi rán nên để nhỏ lửa và lật qua lật lại để nem được chín vàng đều rồi vớt ra giấy thấm để nó hút bớt dầu mỡ, tránh cảm giác bị ngấy khi thưởng thức.

Nước chấm là thứ không thể thiếu để món nem trở nên đậm đà. Muốn có nước chấm ngon, chúng ta cần chuẩn bị một chút đường, tỏi, giấm, ớt, chanh và nước mắm. Đầu tiên, ta hòa tan đường bằng nước ấm rồi cho thêm tỏi, ớt đã băm nhỏ.

Sau đó đổ từ từ giấm và nước mắm vào rồi khuấy đều cho các gia vị ngấm đều. Ta có thể thay giấm bằng chanh hoặc quất. Tùy khẩu vị của mỗi người mà nước chấm có độ mặn ngọt khác nhau. Cuối cùng, bày nem ra đĩa, trang trí thêm rau sống, cà chua hay dưa chuột thái lát để đĩa nem trông thật đẹp mắt. Những bông hồng được làm từ cà chua, những bông hoa được tỉa từ dưa chuột sẽ khiến món ăn vô cùng hấp dẫn. Nem rán chấm với nước chấm tỏi ớt sẽ mang lại cảm giác rất thú vị. Bánh đa nem vàng giòn cùng nhân nem thơm phức quyện hòa với nhau cùng vị cay cay của ớt, chua chua của giấm, ngòn ngọt của đường sẽ khiến những ai thưởng thức nó không bao giờ có thể quên được mùi vị đặc biệt này.

Nem rán đã trở thành một món ăn phổ biến trên khắp đất nước Việt Nam. Nó không chỉ có mặt trong những bữa cơm bình dị thường nhật mà còn xuất hiện trong mâm cơm thờ cúng tổ tiên. Đây là món ăn mang ý nghĩa trang trọng, cao quý. Ngoài ra nem rán còn dùng để ăn kèm với bún đậu và các món ăn khác. Giữa tiết trời se lạnh như thế này còn gì tuyệt vời hơn khi thưởng thức món em rán nóng hổi. Sự kết hợp các nguyên liệu làm nên nhân nem như mang một ý nghĩa biểu tượng về sự đoàn kết, yêu thương, đùm bọc lẫn nhau của người dân đất Việt.

Nem rán không chỉ là món ăn giàu chất dinh dưỡng mà còn là món ăn góp phần tạo nên nền ẩm thực Việt với những đặc trưng và sự độc đáo riêng biệt. Món ăn này tuy dễ thực hiện nhưng lại đòi hỏi sự kì công và khéo léo nên người chế biến cần có sự tập trung nhất định. Đây còn là một trong những món ăn thu hút khách quốc tế khi đến thăm Việt Nam. Có thể nói, món nem rán nói riêng và ẩm thực Việt nói chung đang ngày càng khẳng định được giá trị trên thế giới.

Source: https://camnangbep.com
Category: Học tập

Camnangbep.com cũng giúp giải đáp những vấn đề sau đây:

  • Thuyết minh về cách làm một món an ngắn nhất
  • Dàn ý thuyết minh về một món an
  • Thuyết minh về một món an dân tộc
  • Thuyết minh về món phở
  • Thuyết minh về một món ăn mà em yêu thích lớp 9
  • Thuyết minh về món an ngày Tết
  • Thuyết minh về món nem rán
  • Thuyết minh về một món an lớp 9